Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

ANH DAI DIEN



sưc khoẻ và trường thọ

sưc khoẻ và trường thọ
14:43 31 thg 3 2010Công khai17 Lượt xem0 
sưc khoẻ và  sự trường thọ là chủ đề vĩnh hằng của nhân loại chúng ta .mọi người chúng ta hôm nay,và cả nhân loại trên hành tinh này ai ai củng đang luôn quan tâm đến sưc khoẻ và muốn đươc trương thọ.hàng ngày, chúng ta đang phải luôn đấu tranh ,với biêt bao nhiêu là khó khăn vất vã.để làm việc ,ta làm việc để làm gì; phải chăng là để kiếm tiền.rồi lại phục vụ chăm lo cho sưc khoẻ của chúng ta môt cách tôt nhất.Đó là 2 vấn đề luôn luôn không thể tách rời nhau.vâng thưa các bạn đây là nội dung tôi muốn cùng mọi ngươi chia sẻ.mong đươc các vị cao minh dẫn đường.vậy mỗi chúng ta điêu phải làm thế nào để hoàn thành sứ mệnh cao cả mà thương đế ban tặng cho chúng ta .mong đươc cac bạn hưởng ứng ,cùng nhau, đàm đạo ,tìm ra đươc đỉnh thăng hoa ,của đời người.?.xin gưi đến các bạn lời chào thân ái/?
    jun-jul 496

NGUY CƠ ẢNH HƯỞNG SƯC KHOẺ CỦA CON NGƯỜI THỜI Ở HIỆN ĐẠI... ?

NGUY CƠ ẢNH HƯỞNG SƯC KHOẺ CỦA CON NGƯỜI THỜI Ở HIỆN ĐẠI... ?
14:45 7 thg 4 2010Công khai3 Lượt xem0
Nguy cơ ảnh hưởng đến sưc khoẻ,của con người ở thời hiện đại.....      -ô nhiễm môi trường;  chúng ta thấy rằng sự phat triển nhanh chóng của nghành công nghiệp,đã làm ô nhiểm môi trường,ô nhiểm không  khí,nguồn nươc,rác thải... Do sự biến đổi của khí hậu và hiện tượng hiệu ứng nhà kính,đang làm trái đất nóng dần lên  ,..     -ô nhiểm thực phẩm và những ô nhiểm khác .;thực vật ô nhiểm {phân hoá học,các chất hoá học,chất bảo quản,dược phẩm hoá học } ô nhiểm từ các chất phóng xạ,tia tử ngoại,sóng điện từ.?điều hàng ngày chúng ta đang phải chịu đựng .?    -Lối sống ảnh hưởng xấu đến sưc khoẻ .;ăn uống không khoa học,thích ăn những đồ ăn nhiều dầu mỡ,chất béo,ăn uống vô độ,hay thức khuya ..nếp sống bị đảo ngược sớm tối,ít vận động,chịu nhiều áp lực về tinh thần,hút thuốc,uống rượu vô độ, .Vì thế dẫn đến tình trạng sức khoẻ suy giảm.Quá trình suy giảm sức khoẻ đã tạo ưu thế cho bệnh tật phát triển.?

QUY LUẬT TỰ NHIÊN CỦA CON NGƯỜI - VÀ QUAN HỆ VŨ TRỤ.?


QUY LUẬT TỰ NHIÊN CỦA CON NGƯỜI - VÀ QUAN HỆ VŨ TRỤ.?

19:12 8 thg 4 2010Công khai8 Lượt xem0
 
Thưa các bạn.Từ xa xưa,con người chúng ta đã được mệnh danh là chử {NHÂN} .Vậy thì, Nhân. có nghĩa là ở giữa có phải không ạ ?Thế thì con người chúng ta đang ở giữa khoảng trời đất bao la này.?
       -Vậy thì ở trên có trời - dưới có đất mà chúng ta đang ở giữa{Trên trời - Dưới đât - Giữa nhân} Vậy ta thấy rõ ràng con người là sự kêt tinh của trời và đất.? Là thứ tinh tuý mà trời và đất đã ban tặng cho chúng ta. Như vậy thì chúng ta có thể làm trái lại với quy luật tự nhiên đó được chăng.?
     -Chắc chắn là không. Không thể được,song chúng ta lại đang làm, cho những vấn đề đó,trở nên phức tạp hơn.Tự chúng ta đang đi ngược lại với quy luật tự nhiên,và đang phải chịu đựng biêt bao là nổi đau khổ.?Nào là bệnh tật - Nào là tổn thọ - và chúng ta thử nhìn ra xung quanh của chúng ta.anh em bạn bè ? Nào là anh ơi tôi huyêt áp cao.Anh ơi tôi suy tim rồi .Rồi sao nữa.Em ơi anh bị bất lực .?Anh ơi sao em già sớm quá, rồi người lo giảm cân,kẻ lo chống béo .ôi hạnh phúc đang bị đe doạ .nó đang đến hàng ngày rất nhanh các bạn ạ .. ..TÔI mạo muội đưa những vấn đề này mong đươc các bạn hưởng ứng ,góp ý và ĐÀM ĐẠO .XIN CẢM ƠN .??


jun-jul 459

suc khoe la hanh phuc va tuong lai mai sau

suc khoe la hanh phuc va tuong lai mai sau
01:51 9 thg 4 2010Công khai4 Lượt xem0

Quy Luat tu nhien cua con nguoi va vu tru

Quy Luat tu nhien cua con nguoi va vu tru
23:08 14 thg 4 2010Công khai6 Lượt xem0 


Tác dụng điều trị của Apha-Liopoc

Tác dụng điều trị của Apha-Liopoc
13:41 3 thg 5 2012Công khai54 Lượt xem


0 

THIOGAMMA-Inject
Hoạt chất ALA (alpha lipoic acid) chữa được nhiều bệnh
Alpha lipoic acid (ALA) được phát hiện bởi nhà enzyme học Irwin Gunsalus của đại học Illinois vào năm 1948 và được mô tả và đặc trưng bởi nhà hóa sinh học J. Lester Reed của Đại học Texas Tháng Ba 1951. Tuy nhiên, ALA chỉ được chú ý trong hai thập niên gần đây.Các nhà nghiên cứu nhận thấy ALA được tạo ra với một lượng rất nhỏ ở thú vật, thực vật và người. ALA rất cần thiết cho sự tăng trưởng và những chức năng bình thường của cơ thể. Năm 1989, ALA được “phong danh hiệu” là một chất chống oxy hóa (antioxidant). Hai năm sau, TS. Lester Packer khám phá ra ALA không chỉ là một phần của “đường dây” chống oxy hóa (bao gồm vitamin C, vitamin E, glutathion, coenzym Q10) mà nó có khả năng chống oxy hóa mạnh hơn những chất chống oxy hóa khác. Những nghiên cứu ở phạm vi rộng đã gợi ý rằng ALA có thể là chất chống lão hóa kỳ diệu trông đợi.
Alpha Lipoic Acid (ALA, thioctic acid) là sản phẩm dinh dưỡng hoàn toàn tự nhiên giống như một loại vitamin mà gần đây được tập trung nghiên cứu như một thuốc có tác dụng điều trị rất nhiều bệnh liên quan đến hệ thần kinh, tim mạch, hệ miễn dịch và hệ thống chống độc của cơ thể. ALA tồn tại 2 dạng cấu trúc đồng phân đối quang và đồng phân lập thể: R-(+)-lipoic cid (RLA) và S-(-)-lipoic acid (SLA). ALA được sản xuất ra từ gan và các mô khác một lượng rất nhỏ, mà những nơi này rất cần ALA vì nó cần thiết cho các enzymes xúc tác các phản ứng hóa học cần thiết diễn ra trong cơ thể.Ví dụ, ALA là rất cần cho ty thể của tế bào để chuyển hóa glucose (đường) và tổng hợp ATP (năng lượng) cho cơ thể.ALA là một chất bổ dưỡng đa năng bởi vì bên cạnh giữ vai trò cho enzyme hoạt động sản xuất năng lượng, nó còn hoạt động với nhiều cơ chế và thể hiện các tiềm năng dược lý và chống oxy hóa rất đa dạng. Các phát hiện gần đây, khả năng của ALA làm thay đổi sự điều hòa một số gen liên quan đến sự sống còn của tế bào, chống viêm và chống lại các stress của các chất oxy hóa. Hơn thế nữa, bản thân ALA là một siêu cường chống oxy hóa và đảm bảo cho vô số các chức năng sống khác liên quan đến khả năng điều chỉnh sự hoạt động của rất nhiều gen khác nhau. Vì vậy, ALA không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp mà còn gián tiếp hỗ trợ “kích hoạt” những chức năng của tế bào bị suy giảm hoặc tê liệt giúp cho các tế bào hồi phục các chức năng của chúng và làm cho cơ thể trẻ hóa lại một cách hoàn toàn tự nhiên.
ALA là 1 coenzym quan trọng có tính chống oxy hóa và chống bệnh tiểu đường.ALA tác động như là đồng yếu tố trong phức hợp pyruvate dehydrogenase, phức hợp alpha-ketoglutarate dehydrogenase và phức hợp aminoacid dehydrogenase. ALA giảm được thấy ở những bệnh nhân xơ gan, tiểu đường, xơ vữa động mạch và viêm đa thần kinh .
ALA có thể chuyển hoá từ dạng oxy hóa (với cầu disulfua trong phân tử sang dạng khử (dạng dihydro với 2 nhóm sulfua tự do). Cả 2 dạng đều có khả năng chống oxy hóa mạnh, bảo vệ tế bào khỏi sự tấn công của các gốc tự do.

RLA được được sử dụng trong một thử nghiệm lâm sàng liên bang tài trợ cho bệnh đa xơ cứng tại Oregon Y tế và Đại học Khoa học. R-lipoic acid (RLA) hiện đang được sử dụng trong hai thử nghiệm lâm sàng liên bang tài trợ tại Đại học Oregon State để kiểm tra ảnh hưởng của nó trong việc ngăn ngừa bệnh tim và xơ vữa động mạch. Axit Alpha-lipoic được chấp thuận ở Đức như là một loại thuốc để điều trị polyneuropathies, chẳng hạn như tiểu đường và cồn polyneuropathies, và bệnh gan.
Lipoic acid đã là chủ đề của nhiều nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng:

  • Giảm rối loạn chức năng nội mô và cải thiện albumin
  • Điều trị hoặc ngăn ngừa bệnh tim mạch
  • Đẩy nhanh lành vết thương mãn tính
  • Giảm mức độ của ADMA trong bệnh tiểu đường bệnh nhân bệnh thận giai đoạn cuối vào chạy thận nhân tạo
  • Giảm tình trạng quá tải sắt
  • Điều trị hội chứng chuyển hóa
  • Cải thiện hoặc ngăn chặn các rối loạn chức năng nhận thức liên quan đến tuổi tác
  • Ngăn chặn hoặc làm chậm sự tiến triển của bệnh Alzheimer
  • Ngăn ngừa rối loạn chức năng cương dương
  • Ngăn ngừa chứng đau nửa đầu
  • Điều trị bệnh đa xơ cứng
  • Điều trị các bệnh mãn tính liên quan với sự căng thẳng oxy hóa
  • Giảm viêm
  • Ức chế sản phẩm glycation cuối (AGE) 
  • Điều trị bệnh động mạch ngoại vi. 

Tác dụng chống oxy hóa:
Dạng khử của ALA có khả năng loại bỏ các gốc superoxide, hydrogen peroxide,lipid peroxy (theo Kagan và cộng sự, Suzuki và cộng sự năm 1992). Các gốc tự do này gây vỡ hồng cầu. Trong nghiên cứu in vitro lipoic acid dạng khử hay dạng oxy hóa giúp bảo vệ hồng cầu chống các gốc tự do.
Acid Alpha Lipoic làm tăng hoạt tính các chất chống gốc tự do trong cơ thể. Đặc biệt, ALA có khả năng khôi phục các chất chống gốc tự do, đặc biệt là Glutathion (một chất không thể bổ sung đơn độc bằng đường uống vì dễ bị phân hủy và thường bị giảm do bệnh lý gan, ung thư, tuổi già, AIDS, ngộ độc thuốc...).
Tác dụng hạ đường huyết
ALA kết hợp với insulin làm cho sử dụng glucose hiệu quả hơn. Ở động vật, ALA giảm đường huyết và tăng sinh glycogen ở gan; ở người, ALA giảm nồng độ pyruvic acid (Fachinfo:Thioctacid 1996). ALA cũng cải thiện tác dụng của insulin lên chuyên chở glucose ở cơ khung và chuyển hóa ở người và động vật đề kháng insulin (Henricken và cộng sự 1997). ALA giúp thu nhận glucose từ tế bào (Bashan và cộng sự 1993).
ALA cải thiện tính nhạy cảm với insulin ở bệnh nhân tiểu đường type 2: Theo một nghiên cứu năm 1996 ở bệnh viện đại học Bulgary khoa nội tiết, cho 12 người bệnh TD2 uống ALA 600 mg ngày 2 lần trong 4 tuần, 12 người khác dung nạp glucose bình thường làm nhóm chứng để thử độ nhạy với insulin. Cuối thời gian điều trị, những người uống ALA tăng nhạy cảm insulin ngoại vi.
Trong hơn 30 năm, các bác sĩ ở Đức đã điều trị lâm sàng bệnh tiểu đường với alpha lipoic acid. Nghiên cứu trên toàn thế giới đã chứng tỏ khả năng của alpha lipoid acid bình thường hóa thu nhận glucose và sử dụng glucose. Trong một nghiên cứu, alpha lipoid acid cho thấy có khả năng phòng ngừa bệnh tiểu đường ở 70% động vật thử nghiệm. Trong một nghiên cứu khác, bệnh nhân tiểu đường type 2 uống ALA 500 mg mỗi ngày và sau 10 ngày thấy insulin tăng chuyển hoá 30% lượng glucose (Nagamatsu et al: Lipoic acid improves nerve blood flow, reduces oxidative stress and improve distal nerve conduction in experimental diabetic neuropathy. Diabetes Care 1995 số 18).
Tác động lên bệnh thần kinh do tiểu đường
Bệnh thần kinh do tiểu đường là dấu hiệu và triệu chứng rối lọan thần kinh ngoại vi ở bệnh nhân tiểu đường, sau khi đã loại ra những nguyên nhân khác có thể gây ra bệnh này. Cơ chế sinh bệnh đề nghị cho bệnh này gồm có:
 A. Tăng lưu thông qua đường chuyển hóa polyol, đưa đến tích tụ sorbitol, giảm inositol trong cơ bắp, kết hợp với giảm họat động N+/K+-ATPase.
  B. Hư hại vi mạch bên trong dây thần kinh và thiếu oxy do mất hoạt động nitric oxide do tăng hoạt động gốc tự do oxy.
 ALA làm chậm lại hay đảo ngược bệnh thần kinh ngọai vi do tiểu đường qua nhiều hoạt động chống oxy hóa. Điều trị với ALA tăng glutathione khử, một chât chống oxy hóa nội sinh. Trong nghiên cứu lâm sàng, 600 mg ALA /ngày đã chứng tỏ cải thiện bệnh thần kinh do thiếu ALA.
Một nghiên cứu của Viện hàn lâm y khoa Nga được đăng trên Diabetes Care tháng 3 năm 2003 nghiên cứu trên 120 bệnh nhân tiểu đường chuyển hóa ổn định, với triệu chứng cảm giác vận động bệnh đa thần kinh (polyneuropathy) do tiểu đường, được điều trị ngẫu nhiên bằng truyền tĩnh mạch 600 mg ALA hay giả dược trong 5 ngày mỗi tuần với 14 lần điều trị. Sau 14 lần điều trị, điểm trung bình tất cả triệu chứng giảm so với mức ban đầu là 5.7 ở nhóm dùng ALA và 1.8 ở nhóm dùng giả dược.
Tổn thương thần kinh hay bệnh dây thần kinh ảnh hưởng hơn 50% bệnh nhân tiểu đường và là một trong những biến chứng gây tai hại nhất. Một nghiên cứu đăng trên Diabetic Care cho thấy điều trị với ALA có thể tái tạo một phần chức năng của dây thần kinh chỉ sau 4 tháng uống liều cao ALA (Jacob S et al: Improvement of insulin-simulated glucose-disposal in type 2 diabetes after repeated parenteral administration of thioctic acid. Exp. Clin endocrinol diabetes 1996).
Tác dụng trên não bộ
ALA có thể vượt qua hàng rào máu não dễ dàng , nó có tác dụng bảo vệ trên não bộ và tế bào thần kinh, nhất là giúp ngăn chặn sự suy thoái của não bộ
 Trong một nghiên cứu được thực hiện tại Viện sức khỏe tâm thần Mannheim (Đức), những con chuột già bị lão hóa trí nhớ do tuổi tác được cung cấp ALA đã hoạt động tốt hơn cả những con chuột chỉ bằng một nửa tuổi của chúng. ALA không có tác dụng cải thiện ở những con chuột trẻ bởi vì chúng đã có sẵn ALA cần thiết.
ALA và ung thư
Tất cả chúng ta đều tạo ra những tế bào ung thư một vài lần trong cuộc đời, nhưng một hệ thống miễn dịch khỏe mạnh sẽ chặn đứng những tế bào này, chỉ khi nào hệ thống miễn dịch bị suy yếu thì những tế bào ung thư này mới có cơ hội tăng trưởng và phát triển thành bệnh ung thư.
ALA có khả năng tăng cường miễn dịch, cũng như có khả năng ngăn cản ung thư bằng cách loại bỏ những gốc tự do gây khởi phát ung thư. ALA kết hợp với những chất chống oxy hóa khác có thể phát huy tối đa khả năng chống ung thư. Đối những trường hợp đang điều trị ung thư, những thí nghiệm ở động vật cho thấy ALA có thể trung hòa tác động gây độc của phóng xạ và những nghiên cứu ở người cho thấy ALA có thể làm giảm tác động có hại của hóa trị liệu.
Tác dụng trên bệnh tim mạch
ALA có thể giảm cholesterol tới 40%.
Theo một nghiên cứu được công bố trong tạp chí Diabetes Research and Clinical Practice (12/2004), ALA có khả năng bảo vệ thành mạch máu khỏi tác động của các gốc tự do khi có sự hiện diện của một nồng độ cao triglycerid.
Tác dụng hạn chế sự lão hoá
ALA chống lại sự tạo thành AEG  (glucose protein) nên chống lại các biểu hiện lão hóa. Người cao tuổi (nhất là người bị đái tháo đường) thường có nhiều phức AGE  nên bị các bệnh đục thủy tinh thể, xơ cứng mạch máu, thoái hóa khớp..., làm cho da có những vết nhám, đồi mồi, nhăn, giảm tính đàn hồi. Tiến sĩ Nicholas Perricone chuyên khoa về da liễu tại Trung tâm y tế  Đại học Yale University khám phá ra ALA có khả năng làm giảm vết nhăn, làm căng mí mắt, mắt giảm quầng thâm.


Tác dụng của ALA trong điều trị các tổn thương về gan


Nghiên cứu quy mô lớn đầu tiên sử dụng ALA để điều trị tổn thương gan trên người bệnh ở Mỹ đã được thực hiện vào những năm 1970 bởi Berkson và Frederick C. Bartter và các nhà khoa học tại Viện Y tế Quốc gia (NIH). Trong 79 người bị tổn thương gan nghiêm trọng, 75 của những người đã được điều trị phục hồi hoàn toàn. Gần đây, vào năm 1999 Berkson công bố báo cáo 3 bệnh nhân được điều trị bằng cách sử dụng chế độ dinh dưỡng bổ sung ba chất chống oxy hóa là ALA, selen và Silymarin ở những bệnh nhân bị bệnh gan, bao gồm cả nhiễm viêm gan C mãn tính. Sau nhiều tháng điều trị, cả ba bệnh nhân hồi phục hầu hết hoặc tất cả các chức năng gan của họ, tránh được ghép gan và tiếp tục sống khỏe mạnh, không còn các triệu chứng của các bệnh về gan. Từ 2006-2008, nghiên cứu ở người và động vật đã chỉ ra rằng ALA có thể quan trọng sau đây: phục hồi sau phẫu thuật gan, bảo vệ các tác dụng phụ của hóa trị liệu và ngộ độc hóa chất, và bảo vệ chống lại các ảnh hưởng xấu đến gan và thận từ các thuốc có chứa acetaminophen (ví dụ như Tylenol, Anacin-3 và Percocet). Từ thực một năm có đến hơn 56.000 trường hợp phải nhập viện vì ngộ độc acetaminophen, kết quả này thực sự có ý nghĩa lớn

Chăm sóc bệnh nhân ung thư






Chăm sóc bệnh nhân ung thư  (23/02/2011)
Đau đớn, suy kiệt là yếu tố khiến bệnh nhân ung thư khổ sở và có thể dẫn đến tử vong sớm... Vì vậy, việc chăm sóc giảm đau cho họ rất quan trọng.
Rời xa morphin
Hiểu rõ cơ chế gây đau ở bệnh nhân ung thư, khoa Ung bướu Bệnh viện 198, Bộ Công an (Hà Nội) đã ứng dụng phương pháp mới điều trị giảm đau và chăm sóc triệu chứng giúp đẩy lui những cơn đau đớn ở bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối.
Chúng tôi gặp bệnh nhân nam 76 tuổi đến từ Mông Cổ điều trị tại khoa. Bệnh nhân này có con rể làm việc tại Singapore , biết được phương pháp này đang ứng dụng tại Bệnh viện 198 tại VN nên đã liên hệ để đưa ông sang đây điều trị. Con gái của bệnh nhân là y tá cũng sang cùng chăm sóc cha. Ông nhập viện trong tình trạng đau đớn bởi ung thư xoang, khiến mặt, mắt bên trái sưng bầm nhức nhối. Sau mấy ngày điều trị, cơn đau của ông đã giảm rõ. Một cụ bà hơn 80 tuổi (ở Hà Nội) là bệnh nhân ung thư đại tràng cũng đang điều trị tại đây. Con gái của bà phấn khởi cho biết: "Sức khỏe mẹ tôi đã được cải thiện nhiều sau khi điều trị".
Chăm sóc cho bệnh nhân ung thư (Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)
TS-BS Hoàng Xuân Ba, Giám đốc nghiên cứu miễn dịch Viện Nghiên cứu dị ứng Alameda California (Mỹ) - một chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực này đang trực tiếp điều trị cho bệnh nhân tại khoa Ung bướu Bệnh viện 198 cho biết: "Chúng tôi đã tiếp nhận điều trị nhiều bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối nhập viện trong tình trạng đau đớn, suy kiệt, nhưng đã cải thiện rất rõ sau điều trị, cơn đau giảm hẳn, các viêm nhiễm lở loét được cải thiện rất nhiều, bệnh nhân tăng cân, tinh thần và thể trạng được nâng lên".
(1)

1/3 bệnh nhân ung thư bị đau trong thời gian bệnh. Bệnh tiến triển nặng, gây đau đớn nhiều nhất là ở giai đoạn cuối. Nguyên nhân gây đau là do chính bệnh ung thư, do liên quan đến điều trị ung thư và các rối loạn bệnh đi kèm.

Khoa Ung bướu của bệnh viện từng tiếp nhận bệnh nhân Nguyễn Văn C, 45 tuổi (Hậu Lộc, Thanh Hóa) bị ung thư vùng hạ họng, đã điều trị xạ trị và hóa chất. Sau đó bệnh tái phát, di căn hạch mang tai, sưng tấy, lở loét. Vì hạch ở động mạch cảnh nên không thể phẫu thuật điều trị được, khối u gây đau đớn khủng khiếp khiến bệnh nhân phải tiêm tới 13 ống morphin/ngày. Nhưng sau đó, được điều trị với chăm sóc giảm nhẹ, ông không phải dùng morphin nữa.
Trị đau tận gốc, đẩy lui khối u
TS-BS Trần Quốc Hùng, Trưởng khoa Ung bướu Bệnh viện 198 cho biết, mới đây nhất là trường hợp một giáo sư trong ngành y tế, 68 tuổi, bị ung thư dạ dày đã phải cắt bỏ toàn bộ dạ dày. Sau đó khối u tiếp tục di căn sang gan, phổi. Bệnh nhân cũng đã qua điều trị truyền hóa chất, thể lực suy yếu, sút đến 27 kg, đi lại khó khăn, kèm theo bệnh tiểu đường. Sau khi điều trị theo phương pháp này, thể trạng đã được cải thiện rõ rệt, tăng cân, ăn ngủ tốt hơn.
Theo TS-BS Hoàng Xuân Ba, phương pháp chăm sóc giảm nhẹ là nhắm đến căn nguyên gốc gây đau ở bệnh nhân ung thư để triệt tiêu nó. Phương pháp này cũng áp dụng phác đồ điều trị nhằm giúp bệnh nhân chống đỡ tốt hơn với căn bệnh, kìm hãm sự phát triển của khối u. Nhờ đó, giúp giảm đau đớn cho người bệnh, giảm thấp lở loét, các viêm nhiễm và giúp cho tinh thần của bệnh nhân nâng lên. Phương pháp này là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu tại Mỹ, cho hiệu quả điều trị cao, ít tốn kém và đặc biệt là hầu như không có các tác dụng phụ vì không sử dụng hóa chất, tia xạ. Với mỗi loại ung thư và giai đoạn bệnh khác nhau, các bác sĩ sẽ chỉ định điều trị phù hợp, giúp người bệnh dễ chịu, có thể duy trì sinh hoạt thường ngày. 

(2)
Trích giới thiệu của TS. Stephen Levine về TS.BS Hoàng Xuân Ba


TS. Stephen Levine, giáo sư di truyền học phân tử và viện trưởng viện nghiên cứu dị ứng, California, USA nói về phương pháp điều trị ung thư của BS Hoàng Xuân Ba tại hội nghị thế giới lần thứ 4 về Y học Dinh dưỡng tại San Francisco, 29, tháng 5, 2004


BS.TS Hoàng Xuân Ba đã được đào tạo tại St.Petersburg với chuyên khoa ung thư, miễn dịch lâm sàng và nhi khoa. Ông ta là một trong những bác sỹ ở trình độ cao nhất mà tôi được biết. Đặc biệt, những đột phá về điều trị của ông trong những năm gần đây ở Mỹ đã trở thành huyền thoại.
BS. Ba đã chữa thành công ung thư phổi, gan, vú và tiền liệt tuyến với kết quả vượt xa những gì được báo cáo trong các tài liệu y khoa. Tôi đã trực tiếp gặp và nói chuyện với một số bệnh nhân để tự khẳng định về kết quả này. Một số bệnh nhân là bạn, cộng tác viên, và người thân trong gia đình tôi. Trong những trường hợp này, tôi đã chứng kiến sự hồi phục của bệnh nhân bị ung thư thận tiền phát , ung thư phổi đã di căn, ung thư tiền liệt tuyến giai đoạn cuối và ung thư vú với di căn vào xương mà các bác sỹ đã khuyên bệnh nhân chỉ dùng thuốc giảm đau cho những ngày cuối cùng.
BS.Ba đã cho tôi biết là ông ta có thể giúp bạn rất thân của tôi bị ung thư thận. Điều này rất không bình thường vì ung thư thận thường được điều trị với hiệu quả rất thấp bằng phẫu thuật và hoá trị liệu. Chỉ trong vòng 45 ngày bạn tôi đã không còn dấu vết của khối u ở thận sau khi làm lại PET scan và cả kiểm chứng chỉ số thực nghiệm về lượng kháng nguyên của carcinoma thận. Một đồng nghiệp của tôi là tiến sỹ về hoá học có người thân bị ung thư phổi đã di căn, chỉ trong vòng 6 tuần đã có được sức khoẻ và thể trạng gần như bình thường và chỉ còn lại một dấu vết nhỏ về khối u trên phim X-quang.
Tỷ lệ thành công của phương pháp chữa bệnh của BS.Ba rất cao. Rõ ràng là ông ta đã tìm thấy những nguyên lý đúng đắn về căn bệnh nan y này và giúp chúng ta có hiểu biết đúng hơn và điều trị nó hiệu quả hơn.Những số liệu và lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân sẽ được cung cấp.
Một điều rõ ràng từ kết quả lâm sàng của phương pháp điều trị kể trên là nó có tác dụng chống ung thư mạnh mà không kèm theo một tác dụng độc hại nào. Phương pháp này còn có tác dụng nâng cao thể trạng của bệnh nhân và giảm đau tốt mà không cần đến morphine và các thuốc chống đau khác. Cách chữa bệnh này không làm tổn hại các cơ quan trong cơ thể một chút nào, không gây lệ thuộc và không đắt tiền.
Phương pháp điều trị bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu bằng thảo dược của TS Hoàng Xuân Ba (phần 1)
Xin gửi tới độc giả một câu chuyện kỳ diệu của một bé gái bị mắc bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu với lượng tiểu cầu rất thấp đã khỏi bệnh nhờ áp dụng phương pháp điều trị bệnh XHGTC của TS Hoàng Xuân Ba.
“Con gái tôi, Phoebe bị bệnh ban xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn mãn tính khi cháu mới 15 tuổi. Sau khi điều trị bằng thuốc tây bệnh cháu không thuyên giảm mà còn gây ra các tác dụng phụ nữa. Cháu đã chuyển sang dùng thảo dược, bạch cầu trong máu tăng lên và ổn định, triệu chứng bệnh giảm rõ rệt.
Tháng 8 năm 2000, trên cơ thể Phoebe xuất hiệt các vết bầm tím rộng. Tất nhiên chồng tôi Roy và tôi rất lo lắng. Chúng tôi sống ở Brooklyn , Newyork chỉ một vài tháng vì thế chúng tôi đã đưa cháu tới bác sỹ duy nhất mà chúng tôi biết lúc đó, bác sỹ nội khoa. Sau khi khám và xét nghiệm máu cho cháu, ông ta nói với chúng tôi rằng cháu bị bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu và khuyên chúng tôi nên đưa cháu tới phòng cấp cứu.

(3)
Theo Học viện Quốc gia về Bệnh tiểu đường, tiêu hóa và bệnh thận thuộc Học viện Sức khỏe Quốc gia (UIDDK) bệnh XHGTC xảy ra khi “Kháng thể, phần bảo vệ miễn dịch vủa cơ thể chống lại các nhiễm trùng tấn công tiểu cầu trong máu, các tế bào giúp cho ngừng chảy máu và phá hủy chúng. Ban xuất huyết là những vùng da mầu hơi đỏ tía hoặc bầm tím, xuất huyết xảy ra do giảm tiểu cầu trong máu. Một vài trường hợp XHGTC do thuốc gây ra, một số liên quan tới bệnh nhiễm trùng, mang thai hoặc rối loạn miễn dịch như bệnh lupus ban đỏ hệ thống. Một nửa các trường hợp được phân loại là “tiêu phát” có nghĩa là không không rõ nguyên nhân.
Theo TS. James Mckinnel, nhà huyết học nhi khoa bệnh viện Brooklyn, nơi cháu Phoebe điều trị, số lượng tiểu cầu bình thường trong khoảng 150,000 – 300,000, trong khi đó tiểu cầu của Phoebe chỉ có 20,000. Cháu được đưa vào phòng chăm sóc đặc biệt trong 3 ngày vào tháng 9. Dưới sự điều trị của TS. McKinnel và đồng nghiệp TS. Swayam Sadanandan.
Theo TS. McKinnel, bạch cầu dưới 50,000 là rất nguy hiểm bởi nó có thể dẫn tới chảy máu nội tạng và chảy máu rất nhiều khi bị thương. Trong bài báo của mình “xuất huyết giảm tiểu cầu tiêu phát khó trị: tiếp cận hợp nhất tới việc điều trị” (1). TS. Ba Hoàng viết “ khi tiểu cầu dưới 5000/microlit, chảy máu tiêu hóa dai dẳng có thể chảy ra và có sự rủi ro đối với xuất huyết não tự động”. Theo TS. Sadanandan, tiểu cầu thấp là do hệ miễn dịch đang phá hủy tiểu cầu (gọi là bệnh rối loạn miễn dịch).
Trong tháng 9, khi nằm viện, cháu Phoebe đã được truyền globulin miễn dịch (immunoglobulin), chính nó đã làm cho cháu bị đau đầu dữ dội. Truyền glubolin đã nâng tiểu cầu của cháu lên 50,000 nhưng bác sỹ nói rằng truyền chỉ là biện pháp tạm thời mà thôi.
Thật đúng, sau khi truyền 2 tháng, lượng tiểu cầu bị tụt xuống 30,000 dù vậy các vết bầm tím của cháy đã giảm nhiều. Trong tháng 10, TS. McKinnell đã tiêm thuốc winRho cho cháu, lúc này tiểu cầu được nâng lên 62,000. Tuy nhiên, Phoebe bị tác dụng phụ của thuốc nặng như là buồn nôn, nôn, tiêu chảy và sốt. Vào tháng 11, tiểu cầu của cháu giảm xuống 22,000.
Theo TS. Sadanandan, biểu hiện bệnh của Phoebe là điển hình của bệnh XHGTC mãn tính. Mặc dù bà nói rằng “ bệnh rất khó lường, một số bệnh nhân rất lệ thuộc vào điều trị, số khác như là Phoebe, ổn định không cần bất cứ sự can thiệp nào”. Thực tế là Phoebe đã dùng thảo dược mà TS. Sadanandan đã không xem xét điều đó đúng mức.
Theo thông tin từ website của NIDDK “ Một số trường hợp bị XHGTC không cần điều trị. Trong hầu hết các trường hợp, thuốc làm thay đổi sự tấn công của hệ miễn dịch lên tiểu cầu được sử dụng. Chúng bao gồm corticosteroids ( như là prednisone) và/hoặc truyền tĩnh mạch globulin miễn dịch. Điều trị khác làm giảm tiểu cầu là cắt lách, cơ quan hủy các tiểu cầu bị bọc kháng thể.
(4)

Thông tin này tương tự như điều TS. McKinnell nói với chúng tôi. Phoebe đã được truyền globulin miễn dịch, tiếp đó là tiêm WinRho. Theo website dược học NABI, “WinRho là kháng thể anti-D polyclonalđược chỉ định cho điều trị XHGTC trẻ em cấp và người lớn bị XHGTC mãn tính. Người lớn và trẻ em bị XHGTC thứ phát sau nhiễm HIV trong những bệnh nhân dương tính với Rho(D) không được cắt lá lách. Những tác dụng phụ trên liên quan đến truyền như là đau đầu, rét run và sốt có thể cũng xẩy ra”, vì thế những phản ứng phụ của Phoebe có thể đoán trước được.
TS. McKinnel nói với chúng tôi rằng tỷ lệ phụ nữ mắc bệnh gấp 3 lần đàn ông, đặc biệt là các em nữ tuổi vị thành niên. Ông giải thích rằng, trong nhiều trường hợp, XHGTC tự khỏi. Mới đây, TS. Sadannan nói với tôi rằng “thông thường, khoảng 95% XHGTC xảy ra ở trẻ em khi chúng mệt mỏi do nhiễm virut và sau đó nó sẽ biến mất. Ở trẻ vị thành niên, bệnh thường là mãn tính, đặc biệt là con gái”. TS. Ba Hoàng viết “Hocmon có thể liên quan đến bệnh tự miễn. Hocmon sinh dục nữ là yếu tố thương thường. trong khi đó các hocmon nam làm giảm tỷ lệ (tần suất) bệnh tự miễn”.
TS. McKinnell nói với chúng tôi rằng Phoebe đã mặc bệnh XHGTC hơn 6 tháng. Bệnh được coi là mãn tính. Ông giải thích cho chúng tôi rằng với những phương pháp điều trị y học sẵn có, các thuốc không hiệu quả 100% trong việc làm giảm căn bệnh và thường kèm theo các tác dụng phụ và cách điều trị khác là cắt lách, nó đôi khi có hiệu quả và đôi khi thì không có hiệu quả và để lại cho bệnh nhân không có sự bảo vệ miễn dịch mà lách mang lại. Liệu rằng Phoebe có phải trải qua phẫu thuật không, cháu sẽ thường xuyên dễ bị ốm và có vượt qua được bệnh tật không. Tất nhiên, tất cả chúng tôi hi vọng bệnh của Phoebe tự khỏi trong vòng 6 tháng tới.
Còn nữa
Phương pháp điều trị bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu bằng thảo dược của TS Hoàng Xuân Ba (phần 2)
Bệnh của Phoebe vẫn không khỏi, đến tháng 12, khi tiểu cầu hạ xuống 22,000, sau khi tiêm WinRho, TS. Mckinnel và Sadannan đã kê đơn thuốc cho cháu là Prednisone, 20 mg ngày uống 2 lần. Phoebe bị tác dụng phụ của thuốc là mất ngủ, bồn chồn, khó tập trung và tăng cân
5 tháng liền bạch cầu dao động giữa 23,000 và 80,000. Các bác sỹ bắt đầu cân nhắc đến việc cắt lách. Trong khi đó chúng tôi cũng tìm hiểu thêm các phương pháp điều trị khác. Chúng tôi đã gặp bác sỹ dinh dưỡng, bà ta đã chỉ ra những thay đổi về dinh dưỡng, bà ta nói rằng bệnh XHGTC liên quan tới tình trạng viêm và một số thực phẩm gây ra nó. Bà khuyên Phoebe cắt bớt khẩu phần đường và sữa và cháu chỉ ăn thức ăn hữu cơ và thực phẩm chưa qua chế biến. Phoebe đã miễn cưỡng thực hiện theo chế độ ăn này một tháng nhưng khi đó tiểu cầu trong máu của cháu không cải thiện, cháu đã không tiếp tục theo chế độ ăn đó.
Bác sỹ dinh dưỡng nói với tôi rằng bà có nghe TS. Hoàng Xuân Ba nói ở một hội nghị ở New york về điều trị bằng thảo dược mà ông đang thực hiện cho việc điều trị XHGTC. Bà đã cho tôi số điện thoại của TS. và tôi đã gọi điện thoại cho ông. Ông đang làm việc cho một tổ chức có tên là Get well International. Theo thông tin trên trang web của họ, TS. Ba
(5)
 Hoàng có 40 năm nghiên cứu khoa học và phát triển để kết hợp giữa Đông y và Tây y. Gia đình của ông đã nghiên cứu nhiều phương pháp chữa bệnh và mang lại những kết quả tuyệt vời cho những bệnh về rối loạn về sức khỏe như là bệnh hen, khí phế thủng, viêm gan, xơ gan, những bệnh nhiễm trùng máu, các rối loạn tự miễn, bệnh Gout, các thiếu hụt miễn dịch …
TS. Ba Hoàng đã tốt nghiệp Bác sỹ y khoa và nhận bằng TS. Y khoa tại đại học Y khoa St. Petersburg . Bên cạnh đó, ông có kiến thức sâu rộng về nhi khoa. TS. Ba đã công bố nhiều công trình ở hội nghị quốc tế về miễn dịch học. Ông là đồng tác giả của 2 bằng sáng chế về thuốc của mỹ và quốc tế. Ông đã làm nghiên cứu tại đại học Royal Halloway và Học viện nhi khoa St. Petersburg . TS. Ba làm việc cho trường đại học Mỹ nghiên cứu sự tiến tiến bộ trong y học; Học viện Châu Âu về dị ứng học nhi khoa lâm sàng, Hiệp hội quốc tế về miễn dịch học niêm mạc và nhóm nghiêm cứu về dị ứng. Trang web này cũng đưa thông tin về gia đình ông, ông nội của TS. Ba là 1 TS., bác sỹ về thảo dược, mẹ và bố ông là bác sỹ, thạc sĩ về thảo dược và em của ông cũng là bác sỹ - thạc sỹ về thảo dược.
Khi tôi gọi điện cho TS Ba về tình trạng của Phoebe, ông nói với tôi rằng thông qua việc nghiên cứu và thử nghiệm, ông đã sử dụng phương pháp thảo dược để điều trị cho bệnh XHGTC. Trong nghiên cứu của mình, ông đã mô tả : “qua nghiên cứu cho thấy các bệnh nhân đã không cải thiện tình trạng bệnh khi sử dụng các phương pháp điểu trị thông thường. Điều trị bằng thảo dược làm tăng cường sức khỏe và chức năng của tiểu cầu. Quan điểm đó đối lập với ý nghĩa xưa nay là nhằm vào ngăn chặn sự phá hủy tiểu cầu do miễn dịch.
Cách nhìn khác nữa về quá trình bệnh liệu rằng có thiếu hụt nào đó về chức năng của tiểu cầu ở tổ chức đích. Cơ thể con người được tạo ra bằng sự thông minh nào đó. Nếu như có vấn đề về chất lượng với cơ quan đích, tức thì hệ miễn dịch đáp ứng tương xứng bằng cách loại bỏ khỏi cơ thể những tế bào hư hại hoặc tổ chức này (mô). Cách điều trị tốt nhất là hỗ trợ và điều chỉnh rối loạn cơ bản của tổ chức vật chủ”. Ông cũng nói rằng “người ta tin rằng giảm tiểu cầu xuất hiện khi có sự mất cân bằng giữa sinh sản, phân bố và phá hủy tiểu cầu”. Tôi nói với TS.Ba quan điểm này trái ngược với ý kiến của TS. Sadannan rằng XHGTC là do bệnh hệ miễn dịch, có thể vì nó tấn công các tế bào khác. Tôi gợi ý rằng điều này cũng sẽ xảy ra nếu như sức khỏe của các tế bảo khác cũng trở nên suy giảm như là các tế bào tiểu cầu suy giảm.
Theo nghiên cứu của ông, TS. Ba tin rằng “một vài yếu tố góp phần làm rối loạn tổ chức vật chủ” là các độc tố như là các hóa chất từ môi trường hoặc thủy ngân và nhiễm vi rút, nó cho phép vi khuẩn xâm nhập vào tế bào và tấn công các phản ứng miễn dịch. Ông chỉ ra rằng trong những trường hợp hiếm, các vacxin sởi, quai bị, rubella (mmr vacxin) đưa vào cơ thể có thể phát động một đáp ứng miễn dịch, vì có thể thủy ngân được sử dụng để bảo quản các vacxin. Yếu tố thứ ba là các trạng thái năng lượng thấp trong cơ thể … căng thẳng kéo dài hoặc suy kiệt, mất ngủ hoặc thiếu ngủ là những nguyên nhân của trạng thái năng lượng thấp”. Ông cũng nói rằng “rối loạn chức năng tiêu hóa có thể là biểu hiện liên quan đến bệnh miễn dịch. Bằng cách tăng cường chức năng tế bào, các tiểu cầu khỏe hơn, chức năng tốt hơn, tự khỏe được và tăng sức đề kháng với các tác nhân gây bệnh”, công bố trên website của Getwell.
Theo trang web Getwell, “thuốc tây y có thể được sử dụng để điều trị các triệu chứng cho
(6)
 các giai đoạn ngắn, tuy nhiên, bệnh sẽ bị người ta lờ đi, với thuật ngữ mất cân bẳng toàn bộ cơ thể và tập trung vào điều trị các triệu chứng. Thuốc tây thất bại với rất nhiều bệnh mãn tính thời hiện đại mà đòi hỏi sự chữa trị cân bằng, xây dựng chế độ dinh dưỡng chứ không phải là các thuốc phá hủy, ngăn chặn sự xâm nhập.
TS. Ba nói với tôi các điều trị của ông bao gồm 2 thứ thuốc khác nhau, mỗi loại 3 viên uống 2 lần hàng ngày. Một loại thuốc bổ máu và một loại phục hồi miễn dịch tiều cầu bệnh XHGTC. TS Ba bảo tôi rằng Phoebe uống thảo dược kèm với steroids khoảng 01 tháng và sau đó dừng Steroids và chỉ uống thảo dược tối thiểu 03 tháng.
Còn nữa
Phương pháp điều trị bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu bằng thảo dược của TS Hoàng Xuân Ba (phần 3)
Theo trang web của Getwell, thuốc bổ máu được điều chế đặc biệt để tăng cường sức khỏe tăng cường chức năng tiểu cầu do cung cấp các chất được chiết xuất từ cây cỏ hoa và tính sinh học đặc thù cho tủy xương, cũng như là tăng cường năng lượng tế bào các chất bổ máu là thảo dược mà nhiều thầy thuốc sử dụng ở phương Đông
Theo trang web Getwell, thuốc chứa các loại thảo dược sau:
  • Địa hoàng (tên Khoa học Rhehmania): một loại thuốc bổ thảo dược … được biết rõ ở phương Đông … có tác dụng chữa viêm, chứng thiếu máu, hỗ trợ miễn dịch và tác dụng chống bệnh tiểu đường. Rehmannia thường được sử dụng ở các phòng khám phương Đông, nó là thuốc bổ thận căn bản và cũng là thuốc bổ máu chính”.
Trạch tả (tên khoa học là Alisma) có khả năng giúp tăng cường chuyển hóa nước, hỗ trợ cho thận đào thải tối đa các chất có hại, tránh sự lắng đọng có thể gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe, giúp ổn định lương Creatinine trong máu, hỗ trợ điều hòa chất đạm trong nước tiểu và lợi tiểu.
(7)
Xương bồ (tên khoa học là Acorus): Trang web Getwell ghi rằng “ acorus là loại thuốc bổ tiêu hóa, chúng ta sử dụng một lượng rất nhỏ Acorus để giúp cho người có hệ thống tiêu hóa yếu tiêu hóa rau quả tốt hơn. Trang web Karyx.com nói rằng: “người Trung quốc cổ đại đã sử dụng nó để làm giảm sưng và chống táo bón. Ở Ấn độ, người ta sử dụng acorus để chữa sốt, viêm phế quản và hen phế quản.
Hoàng kỳ (Tên khoa học là Astragalus): Getwell cho biết, Astragalus có thể được sử dụng ở những người bệnh tự miễn dịch hoặc trạng thái thiếu hụt miễn dịch. Nó mang lại cho tế bào sức sống. Khi tế bào có nhiều năng lượng hơn chúng có thể khử độc tốt hơn và vượt qua được các stress và các ảnh hưởng xấu, lấy lại được sự hợp nhất và chức năng của chúng. Có nhiều nghiên cứu đã chứng minh lợi ích của Astragalus đối với bệnh lupus ban đỏ, tiểu đường và chức năng miễn dịch thấp.
“Y học trung hoa thường sử dụng các thuốc bổ sung bằng thảo dược để tăng cường sinh lực”, TS Ba công bố trong công trình của mình. (Carole Owens, đối tác của TS Ba ở Getwell nói với tôi thuốc này đã được sử dụng mới đây, nó không phải là thuốc mà Phoebe uống.
Trang web Kalyx.com nói rằng “Y học Trung Hoa đương thời phục hồi chức năng miễn dịch ở các bệnh nhân ung thư đã điều trị bằng hóa chất và xạ trị. Nghiên cứu ở Trung Quốc đã chứng minh khả năng sống tăng lên ở những bệnh nhân được điều trị cả bằng thảo dược và thuốc tây, cũng như là sự bảo vệ của các thuốc ức chế miễn dịch sau đó. Những nghiên cứu ở phương Tây xác nhận rằng Astragalus tăng cường chức năng miễn
(8)
 dịch do tăng cường hoạt động của một vài loại tế bào bạch cầu máu và tăng cường sản xuất kháng thể và interform, tác nhân chống vi rút riêng của cơ thế.
Nhọ nồi (tên khoa học Ecliptae): đã được biết rõ với tác dụng chống lão hóa, làm khỏe tóc và bảo vệ gan. Theo Getwell, nó đã được nghiên cứu và sử dụng thành công cho hàng loạt các triệu chứng chảy máu. Trang web Kalyx.com nói: “ Theo y học cổ truyền nhọ nồi được sử dụng để chữa các bệnh chảy máu, tương tự như cách mà Ecliptae được sử dụng ở các nước khác như là Trung Quốc và Úc … Hiệu quả của nó trên máu là sử dụng trong thiếu máu …”
Diệp hạ châu (tên khoa học Phyllanthus), thuốc bổ gan giúp cho cơ thể loại trừ chất độc, giảm những ảnh hưởng có hại cho cơ thể nhiễm trùng vi rút …. Getwell.Kalyx.com nói “cây cỏ được dùng cho chữa trị nhiều bệnh kể cả tiểu đường, lỵ, sốt, cúm, các khối u …
Phục hồi miễn dịch bệnh XHGTC, hai loại thuốc bao gồm các hỗn hợp thảo dược khác theo Getwell, đó là:
Củ mài (tên khoa học Dioscorea) tăng cường chức năng tuyến thượng thận, chống oxy hóa … được dùng để làm giảm tác dụng phụ của các thuốc như  prednisone, loại khác bán ra thị trường được gọi là Wild Yam Root C/S (Dioscorea villosa), theo Kalyx.com “wild yam là một loại thuốc chống co thắt mawchj và chống viêm.
Mạch môn (tên khoa học Ophiopogonis): giúp cho việc tái cân bằng hệ thống miễn dịch và tăng cường miễn dịch tế bào. Nó được chứng minh là chất bổ xung hữu hiệu đối với các nhiễm trùng máu và biến chứng của hóa trị liệu. Trang web có tên là Foods N' Herbs nói: “Ophiopogonis Radix … làm ẩm phổi … dinh dưỡng dạ dày và tim, tăng cường dòng máu tới mạch vành và làm giảm đường máu.
(9)
Và măng tre (tên khoa học bamboo shoots): theo Getwell, măng tre được sử dụng điều trị buồn nôn, nôn và ngộ độc thức ăn, điều trị triệu chứng xuất huyết (chảy máu cam) do hậu quả của nhiễm trùng vi rút cấp (cảm lạnh, máu, sốt xuất huyết, hoặc ngộ độc hóa chất”, trang web The Foods N' Herbs nói về măng tre “tạo dịch, điều trị tiểu đường, trợ giúp tiêu hóa, tăng cường hoạt động tiết niệu và nhu động ruột, giảm tác hại …”.
Khi tôi nói chuyện qua điện thoại với TS Ba năm 2000, ông giải thích rằng, một khi thảo dược đã phục hồi sức khỏe và cân bằng sản xuất tiểu cầu của cháu Phoebe thì sẽ không cần dùng thuốc thêm nữa. Ông nói rằng sau khi uống thuốc thảo dược của ông khoảng 2 đến 3 tháng, Phoebe sẽ trở lại bình thường. Theo đó cháu sẽ không còn triệu chứng bệnh tự miễn dịch như là chảy máu bất thường hoặc bầm tím nặng. Ông nói rằng cháu có thể sống cuộc sống bình thường không cần sự can thiệp của y học.
Mặt khác, TS McKinnell nói với chúng tôi ông tin rằng vì bệnh XHGTC của Phoebe đã trở thành mãn tính rất có thể đã có rối loạn tự miễn dịch như ở người lớn như là bệnh lupus ban đỏ hoặc viêm khớp dạng thấp. Chúng tôi đã nói chuyện với TS McKinnell về việc điều trị bằng thảo dược của TS Ba, ông đã khuyên chúng tôi hỏi TS Ba về tác dụng phụ của thuốc.
Tôi đã làm như vậy, đối tác của TS. Ba, bà Carolin Owens nói với tôi rằng bà đã sử dụng thuốc của TS. Ba cho trên 1000 bệnh nhân. Trong bài báo của mình TS. Ba viết “ quan niệm của TS. Ba là sức khỏe của mô đích (tổ chức đích) của bệnh này, lúc tế bào tiểu cầu, có thể được tăng cường như là một sự lựa chọn điều trị và vì đã điều trị cho hàng trăm bệnh nhân. TS Ba nói với tôi trên điện thoại vào năm 2000 là ông vẫn giữ liên lạc với những người ông đã điều trị bằng thảo dược, không có ai trong số họ nói rằng có tác dụng phụ của thuốc ngoài tác dụng của nhuận tràng nhẹ. TS Ba khẳng định điều này
Còn nữa
Phương pháp điều trị bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu bằng thảo dược của TS Hoàng Xuân Ba (phần 4)
 “Bác sỹ của tôi nói sẽ không có tác dụng phụ với thuốc Vincristine, tuy nhiên tôi đã bị đau đầu kinh khủng trong 3 ngày và đau các ngón tay mấy tháng liền. Gần 12 tháng tôi đã uống thuốc thảo dược 2 lần một ngày trước các bữa ăn
Khi bắt đầu uống thuốc, tiểu cầu của tôi tụt xuống từ 81 nghìn tới 8 nghìn qua một vài tháng và tăng dần lên 2 nghìn sau 2 tháng tiếp theo, 13 – 21 nghìn và 2 tháng qua tiểu cầu tăng lên 126 nghìn. Tôi không bị các tác dụng phụ của thuốc, giảm rất đáng kể so với nhiều tác dụng phụ của Glucocorticoid mà tôi đã bị trong việc chữa trị thông thường”, Beverly ở  California – 1 bệnh nhân điều trị bằng thảo dược tâm sự.
Tôi đã kể lại điều TS Ba nói với tôi cho TS McKinnell và ông nói rằng ông không phản đối việc cháu Phoebe dùng thuốc thảo dược. Sau khi cháu Phoebe dùng prednisone 5 tháng, đếm tiểu cầu vẫn còn dao động. Cháu đã bắt đầu uống thuốc thảo dược của TS Ba, bắt đầu từ tháng thứ 4, cháu uống 3 viên bổ máu và 3 viên thuốc phục hồi miễn dịch bệnh XHGTC 3 lần 1 ngày khoảng 3 tháng.
Các BS của cháu đã giảm liều thuốc prednisone dần. Tiểu cầu của cháu tăng lên vào tháng 5, 6 tháng sau khi dùng prednisone, 1 tháng sau khi dùng thuốc thảo dược của TS. Ba, chồng tôi đã yêu cầu Phoebe thôi không dùng thuốc prednisone. Vì tiểu cầu của cháu đã ổn định khoảng 75,000. TS McKinnell đã chấp nhận. Vì TS. Ba đã tiên lượng rằng, sau 3 tháng dùng thảo dược, tiểu cầu của cháu sẽ lên tới 102,000 . Cháu tiếp tục uống thảo dược thêm một thời gian nữa. Chúng tôi thực sự tin rằng tiểu cầu của cháu đã ổn định. Cháu vẫn được TS Sadannan xét nghiệm tiểu cầu. Từ lúc đó, theo báo cáo TS Sadannan, tiểu cầu không bao giờ thấp hơn 48,000, thường dao động khoảng 100,000.
Khi tôi viết bài này, cháu Phoebe đã 18 tuổi, cháu vẫn tiếp tục đi khám định kỳ TS Sadannan ở bệnh viện Brooklyn . Cháu đã thôi uống thảo dược và tiểu cầu dao động mức 60,000 – 100,000. Thật may mắn cho cháu, TS Sadannan nói rằng thật khó mà đoán được điều gì sẽ xảy ra khi mà cơ thể của những phụ nữ trẻ phải trải qua những stress,
(10
 như là chửa đẻ, sản xuất kháng thể của họ tăng lên. Với XHGTC, họ có thể không có được triệu chứng bệnh, nhưng cơ thể họ có thể có số lượng tiểu cầu thấp. Stress đối với cơ thể có thể gây ra trạng thái căng thẳng với hệ miễn dịch, gây cho nó tiêu hủy tiểu cầu. Phoebe bây giờ không còn biểu của việc phát sinh bệnh thêm nữa.
Điều đó thật là khó đoán trước. TS Ba khẳng đình rằng Phoebe sẽ không có những phiền toái về sức khỏe đáng kể trong tương lai, hiện tại việc điều trị bằng thảo dược của ông đã phục hồi sức khỏe tiểu cầu của cháu.
Là bố mẹ của cháu Phoebe, tất nhiên Roy và tôi thực sự hi vọng rằng TS. Ba đã đúng. Chúng tôi hiểu rằng, khi TS. Sadannan chỉ ra rằng “không có bằng chứng khoa học xác đáng” rằng việc điều trị bằng thảo dược của TS Ba đã cải thiện tình trạng của Phoebe. Hơn thế nữa, tôi đã chấp nhận một quan điểm mà tôi đã nghe từ chuyên gia y học khác, TS Y học Andrew Well khơi dậy trên đài phát thanh công cộng quốc gia những năm trước đây. Nếu như chúng ta tiến hành một sự can thiệp và điều kiện của chúng ta cải thiện, ông nói, chúng ta hẳn sẽ nói rằng sự can thiệp đó có lợi cho chúng ta. Điều này có ý nghĩa với tôi, nó mách bảo tôi cân nhắc giữa thực tế là bệnh của cháu Phoebe đã ổn định sau khi cháu đã dùng thuốc của TS. Ba và vẫn còn ổn định, sự hiểu biết của TS Ba về bệnh XHGTC là kết quả của rối loạn tiểu cầu hơn là rối loạn hệ thống miễn dịch.
Vì những lý do này tôi muốn giới thiệu phương pháp điều trị bằng thảo dược đối với những người bị XHGTC. Rõ ràng là nó ưu việt hơn phương pháp chữa trị tây y như là các steroid, truyền globulin miễn dịch và cắt lách, vì nó không có tác dụng phụ và hiệu quả hơn. Tôi tin rằng nó làm ổn định tiểu cầu của cháu Phoebe và giảm các triệu chứng như chảy máu, bầm tím nặng, lâu dài”.

Con người ta có thể sống thiếu một số cơ quan trong cơ thể như tai, mắt, tay, chân… nhưng, không thể sống thiếu một trái tim. Điều này chứng tỏ tầm quan trọng không gì thay thế được của cơ quan đặc biệt này trong cơ thể. Tuy nhiên, có rất nhiều mối nguy cơ đe dọa trái tim - một trong số đó là căn bệnh suy tim..
Suy tim là tình trạng cơ tim ngày càng yếu đi và không thể bơm đủ máu đi nuôi các cơ quan trong cơ thể, không hút được máu đã thiếu oxy về tim, nên máu bị ứ lại, gây tình trạng phù nề, ho, mệt mỏi, khó thở. Khi suy tim nặng, người bệnh cảm thấy khó thở mọi lúc, mọi nơi, ảnh hưởng rất nghiêm trọng tới sức khỏe, sinh hoạt và lao động.
Suy tim thường xảy ra phần lớn ở những người ở độ tuổi trên dưới 50, người bị bệnh mạch vành, bệnh tim bẩm sinh, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, tiểu đường,… ngoài ra, những người béo phì cũng rất dễ bị suy tim. Mục tiêu chủ yếu trong điều trị suy tim làgiảm triệu chứng, làm chậm tiến trình suy tim và kéo dài tuổi thọ cho người bệnh. Theo y
(11)
 học hiện đại, điều trị suy tim thường sử dụng các nhóm thuốc như: Digitalis, ức chế men chuyển, chẹn beta, lợi tiểu, tùy theo nguyên nhân, có thể phẫu thuật. Bên cạnh sự cải thiện nhanh triệu chứng, các phương pháp này cũng có nhiều hạn chế cho việc sử dụng của các bệnh nhân như: Phần lớn phải được chỉ định và theo dõi chặt chẽ của các bác sỹ chuyên khoa, có nhiều phản ứng không mong muốn: Gây ho (ức chế men chuyển), suy tim nặng hơn (chẹn bêta liều cao), quá liều ngộ độc (digitalis), rất tốn kém và chứa đựng nhiều tai biến (phẫu thuật tim)...Những hạn chế này trong các cách tiếp cận hiện tại đang phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả của việc phòng và điều trị suy tim.
Vậy, làm thế nào để bảo vệ và duy trì trái tim khỏe mạnh cho mỗi chúng ta?
Tin vui là sự xuất hiện gần đây của một sản phẩm, một cách tiếp cận mới, đơn giản, an toàn , dễ sử dụng hơn, đang thu hút được nhiều sự quan tâm và kỳ vọng của các bác sỹ và đông đảo những người đang hoặc có nguy cơ phải sống với một trái tim “có vấn đề”. Đó là sản phẩm thực phẩm chức năng (thực phẩm thuốc) Ích Tâm Khang, được kết hợp toàn diện từ các thành phần thiên nhiên an toàn, bổ ích cho trái tim như: Cao Natto (chứa Nattokinase), cao Đan Sâm, cao Vàng Đằng, L-carnitine, giúp giảm nhanh các triệu chứng suy tim, giúp phục hồi khả năng sinh hoạt, làm việc bình thường của bệnh nhân. Ngoài ra, Ích Tâm Khang còn giúp hỗ trợ điều trị các bệnh lý có thể dẫn đến suy tim như: Tăng huyết áp, tăng mỡ máu, bệnh tim thiếu máu…, giúp làm chậm tiến trình suy tim. Đặc biệt, ích Tâm Khang hỗ trợ kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân. Để đạt kết quả cao nhất, một đợt sử dụng Ích Tâm Khang nên kéo dài trung bình từ 4-6 tháng, sau đó dùng liều duy trì để củng cố sức khỏe của tim và phòng ngừa tái phát các triệu chứng.
Với mục tiêu giúp cho con người có thể bảo vệ và duy trì một trái tim hoàn toàn khỏe mạnh, Ích Tâm Khang mang lại niềm tin không chỉ cho những người đang mắc bệnh suy tim, mà với cả những người chưa mắc, bởi trong Ích Tâm Khang chứa các thành phần có giá trị rất lớn trong việc phòng ngừa khả năng dẫn đến suy tim ở cả những người khỏe mạnh bình thường và đặc biệt là ở những người có nguy cơ cao của căn bệnh này ( bệnh tim thiếu máu, hẹp, hở van tim, tăng huyết áp, bệnh tim nhiễm khuẩn, tiểu đường, những người thừa cân, béo phì...) 

                                                                                                               TS. Hoàng Xuân Ba

Hoà Hãn Linh - Giải pháp an toàn cho bệnh ra nhiều mồ hôi

Với công thức và thành phần độc đáo từ thiên nhiên Hoà Hãn Linh giúp làm giảm chứng ra mồ hôi ở lòng bàn tay, bàn chân, ngực, trán, lưng ….
Thông thường cơ thể tiết mồ hôi nhiều hơn khi gặp các yếu tố kích thích như thời tiết nóng, vận động nhiều hay những lúc làm việc căng thẳng, tâm trạng lo lắng, xúc động… còn người mắc chứng bệnh tiết mồ hôi nhiều là hiện tượng mồ hôi chảy ra đầm đìa ở hai lòng bàn tay, bàn chân, trán, lưng, ngực ngay ở các điều kiện bình thường. Đây là một hiện tượng bệnh lý, tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng nó ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống của người mắc phải.
Theo thống kê có khoảng 5% dân số mắc chứng ra mồ hôi nhiều (theo Ykhoa.net). Bệnh thường xảy ra ở những người bình thường, không phân biệt giới tính, và hay mắc phải ở
 độ tuổi thanh, thiếu niên và thậm trí là ở cả trẻ em, bệnh có xu hướng giảm dần khi độ
(12)
 tuổi càng cao. Nguyên nhân cơ bản gây ra chứng tăng tiết mồ hôi là do sự hoạt động quá mức của hệ thần kinh giao cảm, ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác như liên quan đến tiền sử gia đình hay do mắc một số bệnh lý như cường giáp trạng, béo phì, rối loạn tâm thần, đái tháo đường và phụ nữ thời kì tiền mãn kinh…
Biểu hiện lâm sàng thường thấy là hiện tượng mồ hôi được tiết ra chủ yếu ở lòng bàn tay, bàn chân, ngực, trán… là những vùng thường khu trú nhiều tuyến mồ hôi, bề mặt làn da xuất hiện màu hồng hoặc trắng, nặng thì lớp da dày lên, rạn, có vảy… bề mặt da thường xuyên bị ẩm ướt là điều kiện cho vi khuẩn, nấm và virus phát triển gây ra các chứng bệnh về da như mụn, nấm …nhưng trước hết là gây mất vệ sinh cá nhân, ảnh hưởng đến công việc hàng ngày, chơi thể thao do khó cầm nắm các vật, gây mùi khó chịu khiến người bệnh gặp nhiều trở ngại trong sinh hoạt, ngại, không dám bắt tay, mặc cảm trong giao tiếp xã hội…
Hiện nay, có một số phương pháp để điều trị chứng bệnh tăng tiết mồ hôi: Dùng các thuốc dạng bột để bôi lên bàn tay, bàn chân…. có tính chất làm khô da (như nhôm chlorua, kali permanganat…), liệu pháp ion, tiêm dưới da botox, tiêm nước nóng tiêu diệt hạch thần kinh giao cảm… những biện pháp điều trị này thường chỉ có tác dụng tạm thời sau đó bệnh lại tái phát. Phẫu thuật cắt bỏ hạch thần kinh giao cảm, mặc dù có thể đem lại kết quả tốt cho người bệnh, nhưng một số bệnh nhân có thể gặp phải tai biến (có thể tử vong) và biến chứng sau phẫu thuật như: cảm giác khô dát ở ngực và 2 tay, tiết mồ hôi bù trừ (mồ hôi chảy ra ở các bộ phận khác của cơ thể)…..
Theo Đông y, chứng ra nhiều mồ hôi gọi là Tự Hãn do dương khí hư (biểu khí hư) làm cho lòng bàn tay, bàn chân hoặc toàn thân ra nhiều mồ hôi lâu ngày dẫn đến âm hư tân dịch hao tổn. Điều trị phải bổ khí cố biểu, dưỡng âm ngăn cản sự hao tổn tân dịch. Gần đây ở các hiệu thuốc xuất hiện một sản phẩm độc đáo để hỗ trợ điều trị chứng bệnh khó chữa này đó là Hoà Hãn Linh. Sản phẩm Hoà Hãn Linh là sự phối hợp một cách toàn diện giữa các vị thuốc đông y có tác dụng bổ khí cố biểu (Hoàng kỳ), làm cho tinh khí bền (Sơn thù du), dưỡng âm bảo tồn tân dịch (Thiên môn đông). Ngoài ra còn có sự phối hợp tác dụng điều hoà nồng độ các ion Na+, Ca2+ nội bào, giữ nước trong tế bào (Taurine), và tác dụng trấn tĩnh thần kinh (MgCl2 và Taurin), do đó làm giảm tính hưng phấn quá mức của hệ giao cảm.
Với công thức và thành phần độc đáo từ thiên nhiên Hoà Hãn Linh giúp làm giảm chứng ra mồ hôi ở lòng bàn tay, bàn chân, ngực, trán, lưng …. ngoài ra còn có tác dụng làm giảm bớt tình trạng hồi hộp, lo âu, bồi bổ cơ thể, tăng sức đề kháng , chống mệt mỏi.. Sản phẩm này nên được sử dụng liên tục từ 3 đến 6 tháng với liều từ 6 đến 9 viên, trước bữa ăn 30 phút.

 Nga phụ khang - xua đi nỗi lo u nang buồng trứng, u xơ tử cung

Theo Giáo sư Dương Thị Cương đăng trong Bách Khoa Thư Bệnh Học - NXB Y Học năm 2003 thì ở Hoa Kỳ có tới 20% phụ nữ trên 35 tuổi có nhân xơ ở tử cung. Cũng theo Giáo sư Cương thì tỷ lệ u xơ tử cung ở Việt Nam chiếm khoảng 18%-20% trong số các bệnh phụ khoa.

Con số này có thể còn ít hơn thực tế nhiều vì có nhiều chị em cũng mắc u xơ nhưng chưa có triệu chứng nên chưa đi khám. Còn u nang buồng trứng: Theo bác sỹ Phúc Minh Thuý - Giáo viên bộ môn Phụ sản trường Đại Học Y Dược - Kiêm Trưởng Khoa Phụ ngoại - Ung Bướu bệnh viện Hùng Vương TP. Hồ Chí Minh thì U nang buồng trứng có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, từ bé gái 10 tuổi đến các cụ bà.
Ở nước ngoài: Theo www.medic.com - trang website chuyên về Y khoa thì u nang buồng trứng rất hay gặp và có thể phát triển ở bất cứ lứa tuổi nào. Hay gặp nhất là ở phụ nữ tiền mãn kinh. Ở lứa tuổi này, u nang buồng trứng chiếm khoảng 30% những người có kinh nguyệt đều và tới 50% ở những người kinh nguyệt không đều. Tổng hợp lại có hơn 20% phụ nữ từ độ tuổi trên 30 đang phải đối đầu với căn bệnh u nang buồng trứng, U xơ tử cung. Ở các bệnh viện phụ sản, khoa phụ sản cả ở Trung Ương và địa phương, số chị em đến điều trị các chứng bệnh về u nang buồng trứng, u xơ cổ tử cung ngày một gia tăng. Để phòng tránh và điều trị các căn bệnh này có hiệu quả, mang lại sức khoẻ và hạnh phúc cho đông đảo chị em phụ nữ, 24h kỳ này xin giới thiệu cùng bạn đọc một loại sản phẩm chức năng giúp điều trị và phòng ngừa các bệnh của chị em phụ nữ đó là sản phẩm Nga Phụ Khang.
Nga Phụ Khang là gì?
Đây là một sản phẩm bổ sung (supplements) hay còn gọi là thực phẩm chức năng (dietary supplements) giúp tăng cường sức khoẻ buồng trứng và tử cung, dùng để hỗ trợ điều trị và phòng ngừa các bệnh ở buồng trứng và tử cung như: u nang buồng trứng, đa nang buồng trứng, rối loạn kinh nguyệt, u xơ tử cung...
Sản phẩm có tên là Nga Phụ Khang (do Công ty Dược Á Âu phân phối) với các thành phần dược thảo có tác dụng ngăn ngừa sự phát triển của tế bào khối u, tăng cường hệ miễn dịch cơ thể, cải thiện các triệu chứng lâm sàng và đặc biệt là do có thành phần 100% từ thảo dược nên sử dụng rất an toàn.
Được biết sản phẩm này đã được sử dụng hơn 8 năm qua tại Mỹ với tên là Healthy Prostate & Ovary (HPO) (do tập đoàn Allergyresearchgroup phân phối) cho các trường hợp U nang buồng trứng, đa nang buồng trứng, u xơ tử cung, viêm cổ tử cung, loạn sản cổ tử cung và ung thư cổ tử cung với kết quả rất khả quan. Bạn có thể tìm hiểu thêm về sản phẩm ưu việt này qua các website www.allergyresearchgroup.com hoặc www.goutwell.com/vn
Thành phần chính:
Trinh nữ hoàng cung (Crinum latifolium), Hoàng Kỳ (Astragalus membranaceus), Hoàng Cầm (Sculellaria baicalensis), Khương Hoàng (Curcuma longa)
Cách dùng:
- Phòng bệnh và tăng cường sức đề kháng:Ngày uống 3 lần, mỗi lần 2 viên.
- Hỗ trợ điều trị: Ngày uống 3 lần, mỗi lần 3 viên.
(14)
- Nên sử dụng liên tục từ 2-3 tháng
- Đóng gói: Hộp 1 lọ x 60 viên nang

Chia sẻ kinh nghiệm trị bênh khớp bằng Cốt thống linh

Ông Nguyễn Đắc Tấn (71 tuổi, Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên) chia sẻ việc dùng Cốt thống linh trị bệnh khớp có kết quả khả quan sau khi đã "vái tứ phương".

Ông Nguyễn Đắc Tấn. Người xưa có câu "Có bệnh thì bái tứ phương" - Câu truyền ngôn đó dường như thời nào cũng đúng. Người thiếu hiểu biết thì cúng bái xua đuổi tà ma, người có điều kiện thì tìm đến những giáo sư, bác sĩ đầu ngành, những bệnh viện có uy tín để chữa trị, người nghèo thì đành chữa bệnh bằng những thứ cây cỏ dân gian.
Tôi mắc bệnh đau khớp trên 40 năm nay, từ khi còn trong quân đội. Nhiều bác sĩ giải thích rằng: bệnh này do khí hậu thời tiết nước ta nóng ẩm nên rất nhiều người mắc phải căn bệnh này.
Dù đã chữa chạy nhiều nơi, Đông y có, Tây y có, nhưng bệnh vẫn đeo bám tôi với các triệu chứng "sưng, nóng, đỏ, đau" ở các khớp gối mắt cá, các khớp ngón tay, ngón chân và cả khớp cột sống, khớp cổ. Việc đi lại của tôi trở nên khó khăn, nhiều lúc phải chống gậy, sinh hoạt cá nhân phải nhờ vợ con giúp đỡ. Những lúc ngồi xuống, đứng lên vô cùng khó chịu, đau đớn...
Các loại thuốc tôi dùng dường như không hiệu quả. Những cao hổ cốt, cao trăn, rượu rắn, nhiều loại kháng sinh nhờ mua tận nước ngoài về cũng chỉ có tác dụng nhất thời, lại gây hậu quả giảm trí nhớ, đau thận, hại dạ dày, tuần hoàn máu kém... khiến gia đình tôi rất lo ngại. Tôi đành ngậm ngùi: có lẽ mình sẽ phải sống chung với căn bệnh này suốt đời thôi!
May mắn thay, cách đây 8 tháng, tôi được một người bạn mách trên thị trường hiện nay có sản phẩm Cốt Thống Linh chuyên điều trị bệnh viêm khớp mãn tính, sản phẩm này dùng đắp bên ngoài chứ không phải uống nên rất an toàn. Tôi đã đi tìm mua và dùng thử, thật không ngờ những cơn đau khớp của tôi giảm hẳn, việc đi lại trở nên thật dễ dàng và thoải mái. Tôi đã có thể tự tin đi bộ hàng chục cây số mỗi ngày, ngay cả những ngày trời
(15)
 rét. Và thật lạ lùng, từ khi dùng Cốt Thống Linh, tôi không còn cảm giác sưng, đỏ các khớp chân tay mỗi khi trái gió, trở trời.Từ niềm vui của bản thân và gia đình khi "gặp thầy, gặp thuốc" tôi muốn chia sẻ với mọi người niềm hạnh phúc của tôi. Nhân dịp này, tôi xin chia sẻ kinh nghiệm điều trị bênh khớp cùng mọi người. Nếu bạn bị đau khớp tại sao không dùng thử Cốt Thống Linh - chắc chắn sẽ có được những cảm giác dễ chịu, một kết quả bất ngờ và niềm hạnh phúc như tôi!

Nguyễn Đắc Tấn

71 tuổi, số nhà 3/2 phường 8
Thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên
Hội chứng do thuốc gây ra trong điều trị các bệnh viêm khớp
Thuốc dùng trong các bệnh viêm khớp, chủ yếu là viêm khớp dạng thấp (rheumatoid arthritis) và viêm khớp thoái hóa (osteoarthritis) đều có tác dụng điều trị, nhưng bên cạnh đó cũng có thể gây những ảnh hưởng xấu cho sức khỏe.
Ðể tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra, bệnh nhân viêm khớp cần có sự hiểu biết nhất định về một số loại thuốc thường dùng, đồng thời hợp tác chặt chẽ với bác sĩ để kịp thời tư vấn khi cần thiết.
Đề phòng tác dụng phụMột số phản ứng có hại của thuốc rất dễ được phát hiện như: dị ứng thuốc (tăng nhiệt độ, mẩn ngứa, nổi mề đay, nhức đầu, nôn mửa) hoặc sốc phản vệ (ngứa toàn bộ cơ thể: nhất là ở bàn tay và bàn chân, phù ở mắt như bị bỏng nặng, phù cuống họng, khó thở, chóng mặt, tụt huyết áp và có thể ngất xỉu). Hiện tượng không dung nạp thuốc có thể xảy ra ở khoảng 25% bệnh nhân. Hệ miễn dịch không có vai trò trong loại phản ứng này. Đau bụng, nôn mửa, đau gân, chóng mặt, buồn ngủ, tiêu chảy có thể là biểu hiện của tình trạng không dung nạp thuốc. Giảm liều thuốc hoặc dùng thuốc sau bữa ăn đôi khi làm thuốc dễ dung nạp hơn.
Điều trị cho bệnh nhân tại Khoa cơ xương khớp-BV Bạch Mai. Ảnh: PH
(16) 
Và một số hội chứng: Ngộ độc thuốc khi điều trị các bệnh khớp có thể từ nhẹ đến nặng, phục hồi hoặc không phục hồi được. Thường những xét nghiệm lâm sàng và cận lâm sàng sẽ giúp chúng ta phát hiện sớm các biểu hiện nhiễm độc như: tăng huyết áp, loét và chảy máu đường tiêu hóa, hạ đường huyết, tổn thương hoàng điểm, tổn thương gan, thận, rối loạn về chuyển hóa và nội tiết, suy tủy dẫn đến giảm các tế bào máu... Bệnh nhân phải dừng thuốc ngay lập tức khi có các biểu hiện ngộ độc trên.
Ngoài các biến chứng thông thường vừa kể, một số hội chứng không điển hình dưới đây cũng cần được chú ý khi điều trị viêm khớp:
- Các biểu hiện viêm khớp gia tăng: Bệnh nhân cảm thấy đau hơn, sưng hơn cùng với cứng khớp. Cần biết rằng ban đầu có thể xuất hiện các phản ứng theo xu hướng xấu do thuốc bắt đầu tác dụng. Nếu sau một ngày, các biểu hiện này không được cải thiện và tiếp tục phát triển thì rất có thể thuốc đã không có tác dụng, cần phải thay thế thuốc hoặc điều chỉnh lại liều dùng.
- Tăng nhiệt độ: Nếu nhiệt độ tăng không đáng kể (dưới 38oC), đó có thể là biểu hiện bình thường của phản ứng viêm khớp, nhưng nếu nhiệt độ tăng hơn nhiều (trên 38oC), phải nghĩ đến khả năng về một bệnh nhiễm trùng. Nhiều thuốc trị viêm khớp đã làm suy giảm hệ miễn dịch cũng như giảm thiểu tuần hoàn và làm tăng một cách đáng kể nguy cơ bị các bệnh do vi trùng và siêu vi trùng. Các thuốc chính gây suy giảm hệ miễn dịch là: methotrexat, immuran, remicad, infliximab, enbrel, cyclosporin, cytoxan. Phát hiện và điều trị kịp thời các biểu hiện nhiễm trùng sẽ giúp giảm bớt những biến chứng nặng nề có thể xảy ra.
- Tê hoặc cảm giác kiến bò: Các phản ứng này có thể xảy ra vì sự đè nén do phù và viêm vào các dây thần kinh. Một nguyên nhân khác là do thoái hóa dây thần kinh, do hiện tượng viêm và tổn thương mạch máu. Ngoài ra, độc tính của một số thuốc kháng viêm cũng như thuốc làm suy giảm miễn dịch có thể làm tổn hại hệ thần kinh ngoại vi và gây ra cảm giác tê hoặc kiến bò. Bệnh nhân cần phải thông báo ngay với bác sĩ những biểu hiện này để tìm ra nguyên nhân và điều trị kịp thời.
- Mẩn đỏ: Rất hiếm khi do các bệnh khớp gây ra. Nguyên nhân của triệu chứng này thường là do các thuốc: solganal, myochrysin, methoratrexat...
- Đỏ mắt: Có thể do nhiễm trùng mắt. Nếu kèm theo đau nhức nặng cần phải nghĩ đến bệnh viêm các mạch máu.
- Không phân biệt được màu đỏ và xanh lá cây: Thường do plaquenil làm tổn hại võng mạc gây ra. Bệnh nhân phải báo với bác sĩ và dừng thuốc ngay.- Buồn nôn: Hầu hết các thuốc trị viêm khớp đều có thể gây nên cảm giác rất khó chịu này, đặc
(17)
 biệt là: ibuprofen, naproxen và một số thuốc kháng viêm giảm đau khác như: azathiprin - (Immuran), prednisolon, methotrexat.
- Ho và đau ngực: Viêm các khớp liên sườn có thể gây đau ngực. Tuy nhiên cũng cần được khám để loại trừ khả năng có bệnh về tim và phổi. Như đã trình bày, khả năng bị nhiễm trùng đường hô hấp do tác dụng giảm miễn dịch của thuốc điều trị viêm khớp có thể xảy ra và phải được điều trị bằng kháng sinh kịp thời. Methotrexat có thể gây viêm phổi do làm tổn thương mô và mạch máu, biểu hiện đầu tiên là ho kéo dài. Các thuốc kháng viêm cũng thường gây ợ acid và đau rát ở lồng ngực.
Trên đây là một số dấu hiệu chính nhưng không phải hoàn toàn đầy đủ của các phản ứng do thuốc điều trị các bệnh viêm khớp có thể dẫn đến. Thuốc như con dao hai lưỡi, có thể gây ra bệnh tật, thậm chí tử vong nếu không được dùng đúng và không có bác sĩ theo dõi liên tục. Bệnh nhân cũng như thầy thuốc cần luôn cảnh giác để phát hiện và xử lý kịp thời những biến chứng để ngăn chặn các hậu quả nặng nề cũng như phải dùng thêm thuốc không cần thiết.
TS. Hoàng Xuân Ba
Thuốc trị chứng trào ngược dạ dày - thực quản
Bình thường khi nuốt, thức ăn theo thực quản đi xuống dạ dày và sau khi dạ dày hoàn thành nhiệm vụ của mình thì thức ăn tiếp tục đi xuống ruột non và các phần tiếp theo của hệ tiêu hóa.
Trong bệnh trào ngược thực quản dạ dày, thức ăn cùng với các chất dịch tiêu hóa trong dạ dày trào ngược lên thực quản, gây ra các triệu chứng khó chịu cho bệnh nhân (ợ nóng, khó nuốt, nôn ra máu, đi ngoài phân đen, ho kéo dài, nói khàn vào buổi sáng). Nếu để lâu ngày sẽ gây ra các biến chứng: viêm thực quản, loét thực quản, hẹp thực quản...
Hình ảnh dạ dày thực quản.
(18)
Mục đích của điều trị là làm giảm sự trào ngược, hạn chế các biến chứng, làm các chất trào ngược lên nhanh chóng ra khỏi thực quản, và bảo vệ niêm mạc thực quản. Để thực hiện mục đích này cần phối hợp dùng thuốc với các biện pháp khác.
- Đối với trào ngược không có biến chứng, thường chỉ cần giảm cân, nằm ngủ có gối đầu cao hơn giường khoảng 15cm và tránh các yếu tố làm tăng áp lực trong dạ dày. Bệnh nhân nên bỏ thuốc lá (thuốc lá được coi là làm giảm trương lực cơ vòng thực
- quản), tránh ăn các chất béo, cà phê, sôcôla, tránh uống rượu, nước cam, tránh dùng một số thuốc (thuốc kháng cholinergic, thuốc
 ức chế calci và các thuốc giãn cơ trơn khác). Nên tránh uống nhiều nước cùng với bữa ăn. Nếu không đỡ, có thể dùng thêm thuốc ức chế H2 như cimetidin, ranitidin, famotidin...
- Trong những trường hợp nặng, ngoài việc tuân thủ triệt để các biện pháp nêu trên, dùng thuốc kháng H2 liều cao hơn. Nếu bệnh chưa đỡ, dùng thêm metoclopramid 10mg, uống 30 phút trước khi ăn và trước khi đi ngủ, để tăng trương lực cơ vòng thực quản, đẩy thức ăn nhanh chóng từ dạ dày xuống ruột. Các thuốc ức chế bơm proton như omeprazol 20 mg/ngày trong 4 - 8 tuần là thuốc rất có hiệu quả trong việc làm lành vết loét thực quản do trào ngược. Trong điều trị viêm thực quản do trào ngược, thường đòi hỏi phải điều trị lâu (từ 3 đến 6 tháng) để phòng tái phát. Những bệnh nhân có viêm thực quản Barrett nên điều trị tích cực hơn.
- Bệnh nhân bị biến chứng chít hẹp thực quản có thể dùng thuốc giãn cơ và điều trị trào ngược tích cực. Có thể phối hợp với nong cơ vòng thực quản có bóng qua nội soi, là phương pháp tốt giúp cho bệnh nhân ăn được dễ dàng hơn.
- Biến chứng chảy máu do loét thực quản ít khi nặng, thường không cần phải can thiệp phẫu thuật.
- Bệnh nhân có loạn sản ruột khi sinh thiết thực quản cần phải theo dõi bằng nội soi định kỳ 1 đến 2 năm có sinh thiết để phát hiện ung thư sớm.
- Điều trị phẫu thuật dành cho những trường hợp kháng trị và có biến chứng mặc dù đã điều trị tích cực trong một thời gian dài. Nguyên tắc của phẫu thuật là nhằm "gia cố" cơ vòng thực quản bằng cách lấy đáy dạ dày bao quanh cơ vòng thực quản. Ngày nay phẫu thuật này có thể thực hiện qua nội soi.
BS. Vũ Đình Huy
Thuốc chữa chóng mặt do rối loạn tiền đình
Chóng mặt là một cảm giác chủ quan, khi đó bệnh nhân cảm thấy mình chuyển động trong không gian hoặc các vật chuyển động xung quanh mình.
TS.BS. Nhữ Đình Sơn
Đây là triệu chứng khá thường gặp trong cuộc sống và trong lâm sàng, nhiều khi ảnh hưởng tới tâm lý của người bệnh cũng như gia đình họ.

(19)
 Cấu tạo giải phẫu dây thần kinh tiền đình. Ảnh: Google
Chóng mặt do nguyên nhân tiền đình
Chóng mặt chỉ là một trong nhiều triệu chứng của tổn thương cơ quan tiền đình (chóng mặt, rối loạn thăng bằng, rung giật nhãn cầu (Nystagmus - có tác giả gọi là lay tròng mắt), rối loạn thần kinh thực vật như: nôn, buồn nôn, chân tay lạnh và tê, vã mồ hôi, thay đổi mạch, huyết áp). Rối loạn tiền đình thường do nhiều nguyên nhân gây nên, dựa vào thời gian cơn chóng mặt người ta có thể chẩn đoán một số nguyên nhân như: kéo dài không quá 1 phút: chóng mặt tư thế lành tính, kéo dài vài phút: thiếu máu động mạch đốt sống thân nền thoảng qua, kéo dài vài giờ: bệnh Meniere, kéo dài vài ngày: tổn thương thần kinh tiền đình hay tổn thương não. Người ta phân biệt tổn thương tiền đình trung ương hay ngoại biên dựa vào triệu chứng chóng mặt và các triệu chứng khác (xem bảng).
Chóng mặt tư thế kịch phát lành tính
Là chóng mặt ngoại vi (có hệ thống) thường gặp, chiếm tới 25% các trường hợp chóng mặt, hay gặp ở nữ, tuổi trên 40. Nguyên nhân là do sự di chuyển của các thạch nhĩ trong lòng ống bán khuyên của cơ quan tiền đình gây nên chóng mặt khi thay đổi tư thế của đầu.
Biểu hiện lâm sàng bằng các cơn chóng mặt ngắn khi thay đổi tư thế của đầu: đang nằm, ngồi dậy hoặc khi nằm và xoay người, cúi người hoặc xoay đầu. Triệu chứng thường nặng về buổi sáng và giảm dần trong ngày. Có thể có rung giật nhãn cầu, thường không có ù tai và giảm thính lực.
Bệnh Meniere
Bệnh xuất hiện do tình trạng ứ nội bạch dịch trong các vòng bán khuyên, thường gặp ở tuổi trưởng thành, cả nam và nữ. Biểu hiện lâm sàng bằng các cơn chóng mặt, nặng tai, ù tai, giảm thính lực một bên tai. Thường kèm theo nôn, buồn nôn, tiêu chảy kéo
(20)
dài khoảng vài giờ. Sau khi lui bệnh, thính lực có thể trở về bình thường, nếu tái phát thính lực bên tổn thương sẽ giảm dần. Bệnh thường tái phát sau một thời gian, một số
trường hợp sẽ bị cả hai bên tai.
Điều trị hội chứng tiền đình
- Trước tiên phải để bệnh nhân ở tư thế nằm đầu thấp, cố định đầu, nơi ít ánh sáng, tránh xê dịch.
- Nếu bệnh nhân có nôn nhiều phải cho thuốc chống nôn đường tiêm như papaverin 40mg hoặc primperan 10 mg tiêm bắp.
- Truyền dịch bù nước, điện giải nếu có điều kiện.
- Chống chóng mặt bằng các nhóm thuốc: sử dụng tùy kinh nghiệm của các bác sĩ tuy nhiên có thể sử dụng các thuốc sau:
+ Các thuốc nhóm kháng histamin: vừa có hiệu quả tới chứng chóng mặt vừa làm giảm triệu chứng nôn, buồn nôn. Tác dụng phụ của nhóm này là có thể gây ngủ nhẹ nên không dùng trong khi điều khiển phương tiện giao thông. Các thuốc thường dùng là promethazin 25 mg, scopolamin 0,5mg; diphenhydramin 50 mg.
+ Acetylleucin: 1.000 - 1.500mg/ ngày. Có cả dạng viên và tiêm tĩnh mạch, dạng tiêm tĩnh mạch nên tiêm chậm vì nếu tiêm nhanh có thể gây hồi hộp, trống ngực, mạch nhanh. Thường được dùng ở giai đoạn cấp tính.
+ Nhóm ức chế calci chọn lọc mạch máu não: hay sử dụng nhất hiện nay là các biệt dược của flunarizine, viên 5mg, dùng từ 5 -10mg (1-2viên)/ngày, nên uống trước khi ngủ vì cũng có tác dụng an thần nhẹ. Các thuốc khác có thể dùng như cinnarizin 50-100mg/ngày.
+ Nhóm benzodiazepin: hay dùng là valium, diazepam. Đây là các thuốc trấn tĩnh nhẹ, có thể dùng trong trường hợp bệnh nhân quá lo lắng vì chóng mặt. Tuy nhiên có thể gây quen và lệ thuộc thuốc nên phải có hướng dẫn kỹ, tránh lạm dụng thuốc.
+ Nhóm tăng tuần hoàn tiền đình, tuần hoàn não: nhóm này thường được sử dụng sau giai đoạn cấp, thường để điều trị duy trì, sử dụng lâu dài. Nhóm này có rất nhiều các nhóm nhỏ như:
Betahistin: tác dụng chính vào nhân tiền đình, dùng từ 24 -48mg/ngày chia 3 lần.
Ginkgo biloba 40 mg dùng 3 viên/ngày.
Piracetam 1.200 - 2.400mg/ngày.
(21)
Almitrin - raubasin 40mg dùng 2 viên/ngày: Và rất nhiều thuốc khác.
- Tập bù trừ tiền đình: thường tập khi nghĩ tới chóng mặt tư thế lành tính. Nếu chóng mặt do thiểu năng động mạch đốt sống thân nền thì không nên tập vì có thể gây thiếu máu não. Nên tập có sự hướng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa. Có thể áp dụng cách tập sau:
+ Khi cấp tính: tập ở tư thế nằm: đưa mắt sang hai bên, lên xuống, thực hiện động tác chậm rồi nhanh dần. Nhìn một vật di chuyển qua lại trước mắt 20cm. Khi có thể thì gập, ngửa, quay đầu sang hai bên từ từ và nhanh dần. Nếu đỡ có thể tập ở tư thế ngồi hoặc đứng.
+ Khi qua giai đoạn cấp: tập ở tư thế đứng, đang ngồi, từ từ đứng dậy sau đó đi, lên xuống cầu thang, xoay người kết hợp mở mắt và nhắm mắt.
Tóm lại, khi có triệu chứng chóng mặt, nhất là thời gian kéo dài, chưa rõ nguyên nhân, bệnh nhân cần đến các cơ sở chuyên khoa tai, thần kinh để khám, phát hiện các nguyên nhân từ đó có sự tư vấn và phương pháp điều trị hiệu quả. Không nên tự điều trị tại nhà, lạm dụng thuốc để tránh các hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra.

Đặc điểm lâm sàng
Tiền đình trung ương
Tiền đình ngoại vi
1. Vị trí tổn thương
Nhân tiền đình, đường liên hệ trong thân não
Tai trong, dây thần kinh tiền đình
2. Chóng mặt

Từng đợt, đột ngột
+ Thời gian
Thường xuyên
Cảm giác xoay tròn hoặc đồ đạc quay xung quanh mình (chóng mặt có hệ thống)
+ Tính chất
Cảm giác bồng bềnh, tròng trành (chóng mặt không hệ thống)

+ Cường độ chóng mặt
Vừa phải
Rất nặng
3. Rung giật nhãn cầu
Theo chiều dọc
Theo chiều ngang hoặc xoay
4. Rối loạn thăng bằng (chiều ngã khi làm nghiệm pháp Romberg)
Không phù hợp với chiều của rung giật nhãn cầu
Cùng chiều với chiều của rung giật nhãn cầu
5. Các triệu chứng khác

(22)

+ Hội chứng tiểu não
Thường gặp
Không
+ Hội chứng giao bên
Có thể có
Không
+ Tổn thương mắt phối hợp
Có thể liệt nhìn
Không
+ Ù tai, giảm thính lực
Hiếm
Thường gặp
+ Đau đầu
Không
6. Tiến triển
Chậm, lâu khỏi
Thoái lui nhanh