THỰC PHẨM CHỨC NĂNG, CON ĐƯỜNG CỦA SỨC KHỎE - VÌ SAO BỊ BỎ QUÊN?
Trong bài viết này của Tiến sĩ, bác sĩ Hoàng Xuân Ba - một nhà khoa học đang rất nổi tiếng với phương pháp mới điều trị bệnh ung thư hoàn toàn bằng thảo dược- bạn đọc sẽ có câu trả lời cho các vấn đề:
Thực phẩm chức năng có điều trị bệnh được không?
Tại sao thực phẩm chức năng vẫn rất xa lạ với nhiều bác sĩ?
Chúng ta có nên tự bảo vệ sức khỏe của mình hàng ngày bằng thực phẩm chức năng, hay giao phó và trông đợi vào các bác sĩ, bệnh viện và hiệu thuốc?
"Thực tế đã cho thấy nhiều thuốc men có thể được thay thế bằng vitamin, dược thảo, axit amin, sản phẩm trợ sinh, thức ăn sạch và giàu chất dinh dưỡng, cả thực phẩm chức năng cũng như biện pháp không dùng thuốc."
Thực phẩm chức năng có điều trị bệnh được không?
Tại sao thực phẩm chức năng vẫn rất xa lạ với nhiều bác sĩ?
Chúng ta có nên tự bảo vệ sức khỏe của mình hàng ngày bằng thực phẩm chức năng, hay giao phó và trông đợi vào các bác sĩ, bệnh viện và hiệu thuốc?
"Thực tế đã cho thấy nhiều thuốc men có thể được thay thế bằng vitamin, dược thảo, axit amin, sản phẩm trợ sinh, thức ăn sạch và giàu chất dinh dưỡng, cả thực phẩm chức năng cũng như biện pháp không dùng thuốc."
Tương tự với việc đã xảy ra ở Mỹ đầu những năm 1990, ở nước ta trong những tháng vừa qua đã rộ lên một làn sóng gây nghi ngờ và kết tội bừa bãi bất kể sản phẩm phòng và chữa bệnh nào có nguồn gốc thiên nhiên. Đây có phải là những việc làm chỉ vì mục đích bảo vệ người tiêu dùng và sức khỏe của những người dân bình thường không? Chúng ta cần có một cách nhìn khách quan, tỉnh táo để không lún sâu vào cạm bẫy của những kẻ coi bệnh tật như một mảnh đất màu mỡ để kiếm lời.
Ngay từ năm 1902, Thomas Edison, một nhà sáng chế và phát minh vĩ đại của nhân loại đã nói lên mong ước và cũng là định hướng rất đúng đắn cho y học: “Bác sỹ của tương lai là những người không chỉ cho thuốc mà còn cần chú trọng đến cơ thể của những người bệnh, chế độ dinh dưỡng của họ để tìm ra nguyên nhân bệnh tật và cách phòng ngừa chúng”.
Điều đáng tiếc là với đại bộ phận các bác sỹ hiện nay, họ chỉ biết đến thuốc và thuốc. Càng chỉ định nhiều thuốc mới, thuốc đắt tiền, uy tín và thu nhập của họ càng cao.
Nhiều bệnh nhân bị các bệnh mạn tính như cao huyết áp, tiểu đường… được chỉ định điều trị bằng 10 loại thuốc hóa dược hoặc hơn thế nữa. Họ bị các phản ứng phụ gây ho, viêm đường hô hấp trên, đau nhức cơ bắp, giảm trí nhớ và cả suy thận.
Khi người bệnh hỏi bác sỹ của họ có cách nào thoát khỏi những đau đớn, khổ ải về bệnh tật và thuốc men... câu trả lời thường là không. Với họ chỉ có con đường duy nhất là dùng thêm thuốc để chữa trị các triệu chứng do thuốc gây ra và đi chạy thận nhân tạo.
Các bác sỹ ít khi nói tới khả năng hỗ trợ điều trị rất hiệu quả bằng cách thay đổi chế độ ăn uống, cách luyện tập và sinh hoạt, các phương pháp dưỡng sinh, thiền, thư giãn... cũng như dùng nhiều chất có nguồn gốc thiên nhiên như: nhiều loại thảo dược, vitamin như D, K, dầu cá và các loại thức ăn có nhiều acid béo omega 3, chất khoáng ma-nhê và nếu xa hơn nữa là các thực phẩm chức năng như: Alpha lipoic acid, L-carnitine, Taurine, các sản phẩm trợ sinh (probiotic)…
Những chất này đã được nghiên cứu và cho thấy là có tác dụng phòng và chữa nhiều bệnh mạn tính và không có tác dụng phụ nguy hiểm. Các sản phẩm này chỉ có một “tội” là: không thể bảo vệ được bản quyền và không thể mang lại lợi nhuận kéo dài trong hơn 20 năm cho hãng dược phẩm muốn bào chế, thử nghiệm và đưa chúng vào thị trường như một sản phẩm có tác dụng phòng và chữa bệnh.
Một điều chúng ta cần nhớ là ở giai đoạn cuối những năm 30 thế kỷ trước, có tới 80% các dược phẩm được bào chế và ứng dụng có nguồn gốc thiên nhiên xuất phát từ các kinh nghiệm y học dân gian và ngay hiện tại có tới 25% các dược phẩm đang lưu hành được chiết xuất từ thảo dược.
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, ngày nay các thảo dược vẫn được sử dụng như những phương tiện phòng và chữa bệnh chính cho hơn 80% nhân loại. Vì các lý do kinh tế, các hãng dược không muốn phát triển và sử dụng thuốc thiên nhiên dưới dạng nguyên sinh.
Việc tách ra một hợp chất có tác dụng vào một cơ chế trong bệnh lý cùng việc biến đổi các phân tử tự nhiên bằng phương pháp công nghệ hóa, công nghệ gien để có thể sở hữu bản quyền bởi các hãng dược phẩm trong rất nhiều trường hợp đã làm giảm hiệu quả cho một dược phẩm có nguồn gốc thiên nhiên.
Tại sao cần kết hợp các sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên trong phòng và điều trị các bệnh cấp và mạn tính?
Nhiều bệnh cấp tính như cảm, cúm, viêm nhiễm do vi trùng, siêu vi trùng, nấm bệnh... xuất hiện khi chúng ta không được khỏe, do hệ miễn dịch của chúng ta suy yếu.
Các bệnh mạn tính phổ biến và gây tử vong nhiều nhất cho con người như bệnh tim mạch, ung thư, tiểu đường, tắc nghẽn phổi, hen suyễn, béo phì, trầm cảm, các hội chứng chuyển hóa và rối loạn hệ tiêu hóa, bệnh viêm khớp, dị ứng, u nang, u xơ... phần nhiều có nguồn gốc từ chế độ dinh dưỡng lệch lạc, môi trường ô nhiễm và cuộc sống tinh thần căng thẳng…
Các thuốc hóa dược đại bộ phận dùng để làm giảm triệu chứng, làm tăng chỉ số này, giảm chỉ số kia trong cơ thể người bệnh, nhưng rất ít khi chúng động tới nguyên nhân của bệnh tật và vì thế hầu như không có khả năng chữa khỏi bệnh.
Các thuốc hóa dược đều có những hậu quả phụ và nhiều khi các phản ứng này được nhận thức và điều trị bằng một thuốc khác như một bệnh lý mới.
Thực tế đã cho thấy nhiều thuốc men có thể được thay thế bằng vitamin, dược thảo, axit amin, sản phẩm trợ sinh, thức ăn sạch và giàu chất dinh dưỡng, cả thực phẩm chức năng cũng như biện pháp không dùng thuốc.
Việc người ta khẳng định chỉ có thuốc do các hãng dược bào chế và được bác sỹ kê đơn mới có tác dụng phòng và chữa bệnh chẳng qua là việc làm theo định kiến và sự lệ thuộc kinh tế vào công nghệ y dược hiện đại.
Vì sao thực phẩm chức năng và các phương pháp điều trị không dùng thuốc men ít được nghiên cứu, được phổ biến để ứng dụng rộng rãi?
Con người, với trí tuệ, kinh nghiệm và khả năng quan sát, phân tích của họ, đã tìm ra và ứng dụng rất nhiều sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên để nâng cao sức khỏe, chất lượng cuộc sống, phòng và chữa bệnh. Bản thân con người, cùng những thứ cần thiết nhất để chúng ta sống và tồn tại, phát triển, làm nên những việc phi thường, đều do thiên nhiên tạo ra.
Khoa học chỉ góp phần thúc đẩy sự phát triển và nâng cao đời sống của chúng ta dựa vào những quy luật tự nhiên và những gì có trong thiên nhiên. Bởi vậy, đừng nên lấy khoa học làm con "ngáo ộp" và những tôn chỉ của tổ chức này, đại học kia... để làm thước đo và luật lệ cho mọi vấn đề, nhất là khi vấn đề đó liên quan tới sức khỏe và bệnh tật.
Mặc dù có những tiến bộ nhất định, nhưng những hiểu biết về cơ thể con người, bệnh tật cũng như cách phòng và điều trị của y học ngày nay còn rất hạn chế. Hiểu biết của chúng ta về khả năng phòng và chữa bệnh của các chất có nguồn gốc thiên nhiên cũng như sức mạnh tiềm tàng của cơ thể hiện nay chỉ là một con số giới hạn của sự vô hạn.
Nhưng cách nói như "không thể làm được" cái gì "vì khoa học chưa chứng minh được", là sự vô trách nhiệm phổ biến của những người lầm tưởng mình đang đứng ở đỉnh cao của khoa học.
Một điều đáng tiếc là đã có rất nhiều nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu dịch tễ học và lâm sàng cho thấy khả năng phòng và chữa bệnh ưu việt của nhiều sản phẩm thiên nhiên, thực phẩm chức năng và cả phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc, đã bị vùi dập vào dĩ vãng.
Các tác giả nghiên cứu rất ít khi công bố được công trình của họ trên các tạp chí y khoa lớn vì đại bộ phận thẩm định viên của các tạp chí này thiên về khuynh hướng y dược hiện đại.
Các nguồn tài trợ, kinh phí để tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng các sản phẩm hoặc phương pháp này cũng rất hạn chế để có thể cạnh tranh được với số tiền lên tới hàng tỉ đô-la mà các hãng dược phẩm đa quốc gia có thể bỏ ra để làm thuốc và quảng bá chúng.
Việt Nam có đủ kinh nghiệm và tiềm năng để trở thành cường quốc về y học thiên nhiên.
Việt Nam có đủ kinh nghiệm và tiềm năng để trở thành cường quốc về y học thiên nhiên.
Với đường lối đúng đắn, sự học hỏi thường xuyên và vận dụng sáng tạo, y học dân tộc và thiên nhiên Việt Nam đã đặt được nền móng ở hầu hết các bệnh viện, trạm xá, các đại học y… với những bài thuốc và phương pháp chữa bệnh rất độc đáo và hiệu quả.
Một ví dụ có thể đơn cử ở đây là sự phát hiện và ứng dụng Artemisinin và các dẫn xuất để điều trị bệnh sốt rét. Dược phẩm này đã được chiết xuất từ cây thanh hao hoa vàng bởi các nhà khoa học Trung Quốc, Mỹ và đã được ứng dụng để điều trị cũng như cứu mạng hàng triệu người bệnh ở châu Phi và châu Á.
Artemisinin đã được phát hiện nhờ những tài liệu cổ điển có từ hàng nghìn năm trước và hầu như không làm đau một súc vật thực nghiệm nào cũng như không cần chi phí tốn kém cho các thử nghiệm lâm sàng.
Mặc dù kết quả điều trị cũng như độ an toàn của Artemisinin theo kinh nghiệm của các bác sỹ ở Việt Nam và châu Phi là vượt trội so với các thuốc cổ điển, Cơ quan quản lý về dược phẩm của Hoa Kỳ (FDA) đã áp đặt và kìm hãm việc sử dụng Artemisinin trong một thời gian dài chỉ với lý do: Nó chưa được kiểm nghiệm qua thử nghiệm lâm sàng.
Đến khi các nước châu Phi đồng loạt phản đối và không tuân theo sự phán quyết của FDA và Chính phủ Mỹ, thì Tổ chức Y tế Thế giới đã phải chấp nhận đưa Artemisinin vào các chương trình phòng chống và điều trị sốt rét trên toàn cầu.
Những nhà khoa học tham gia vào phát hiện và tách lọc được Artemisinin đáng nhẽ phải xứng đáng được 2 giải Nobel về y học, bởi vì họ đã làm một việc mang lại lợi ích cho những bệnh nhân bị sốt rét (đại bộ phận là người nghèo) to lớn hơn nhiều so với các công trình khoa học và phát minh đã được giải Nobel trong những năm gần đây.
Các sản phẩm thiên nhiên và thực phẩm chức năng có đáng sợ không?
Nếu được bào chế đúng tiêu chuẩn và dùng đúng, hầu hết các sản phẩm này có tính an toàn vượt trội so với các dược phẩm.
Chúng ta phải thấy vui mừng vì nước nhà đã có những hãng bào chế và phân phối có uy tín, trách nhiệm với sản phẩm thuốc thiên nhiên, cũng như thực phẩm chức năng có chất lượng và giá trị phòng, chữa bệnh tốt.
Mặc dù những nguy cơ, tác hại của thuốc thiên nhiên cũng như thực phẩm chức năng luôn được đề cập và thổi phồng, nhưng những con số sau đây nói lên tất cả:
- Năm 2005: Không có một trường hợp tử vong nào do vitamin và thực phẩm chức năng được báo cáo ở Mỹ, mặc dù có tới hơn 70% người Mỹ dùng các sản phẩm này (theo Trung tâm quản lý về ngộ độc của Mỹ, trang 588 KBPDF).
- Con số tử vong do dùng thuốc theo đúng chỉ định gây ra trong các bệnh viện tại Mỹ năm 2005 là khoảng 106 nghìn trường hợp (theo Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Mỹ).
Trong lĩnh vực nào của đời sống cũng có kẻ xấu người tốt. Chúng ta hãy giúp người dân hiểu biết và loại bỏ những sản phẩm tồi, nhưng đồng thời cần tạo điều kiện giúp đỡ, phát triển những phát hiện và ứng dụng của thực phẩm chức năng, thuốc thiên nhiên mới và cổ điển vì lợi ích của người bệnh và cả nền kinh tế của đất nước.
Nếu làm được việc này, Y tế Việt Nam có thể đón trước chiều hướng không thể thay đổi của nhân loại trong một tương lai không xa, đó là quay lại với các sản phẩm thiên nhiên để phòng và chữa bệnh.
Nếu biết lắng nghe, học hỏi, tiếp thu kiến thức dân gian và luôn tìm kiếm, chúng ta có thể sẽ tìm được cách khống chế và hạn chế những căn bệnh hiểm nghèo nhất của thời đại. Như Paracelsus, một triết gia vĩ đại của nhân loại, đã nói: "Thiên nhiên không tạo ra bệnh gì mà không có thuốc để trị nó"./.
TS. BS Hoàng Xuân Ba
Cập nhật về căn bệnh ung thư
SAU NHIỀU NĂM CÔNG BỐ VỚI MỌI NGƯỜI RẰNG HÓA HỌC TRỊ LIỆU LÀ CÁCH DUY NHẤT ĐỂ THỬ NGHIỆM VÀ LOẠI BỎ UNG THƯ, CUỐI CÙNG JOHNS HOPKINS CŨNG ĐÃ CÔNG BỐ MỘT CÁCH KHÁC.
vitamin E tạo ra cơ chế tiêu diệt tế bào, một cách thông thường của cơ1. Ai cũng có tế bào ung thư trong cơ thể. Những tế bào này không thể bị phát hiện trong những cuộc kiểm tra tiêu chuẩn, trừ khi chúng nhân ra thành vài tỷ tế bào. Khi bác sĩ thông báo với bệnh nhân ung thư rằng sau khi trị liệu, cơ thể họ không sản sinh thêm tế bào ung thư nào khác, điều này có nghĩa là cuộc kiểm tra không phát hiện ra các tế bào ung thư do chúng chưa phát triển tới mức độ có thể nhận biết.
2. Tế bào ung thư xuất hiện từ 6 tới 10 lần trong cuộc đời con người.
3. Khi hệ thống miễn dịch của cơ thể mạnh, hệ thống này tiêu diệt các tế bào ung thư đồng thời ngăn chặn chúng sinh sản và hình thành khối u.
4. Khi một người mắc bệnh ung thư có nghĩa là người đó suy dinh dưỡng đa cấp... Điều này có thể do các nhân tố về di truyền, môi trường, thức ăn và lối sống..
5. Để tránh suy dinh dưỡng đa cấp, thay đổi thói quen ăn uống và bổ sung
thực phẩm sẽ giúp tăng cường khả năng miễn dịch.
6. Hóa học trị liệu bao gồm việc làm nhiễm độc các tế bào ung thư phát triển nhanh, đồng thời cũng tiêu diệt các tế bào khỏe mạnh trong tủy xương và vùng dạ dày - ruột, và có thể gây tổn thương các cơ quan như gan, thận, tim, phổi...v... v..
7. Các tia phóng xạ trong quá trình tiêu diệt tế bào ung thư có thể gây thương tổn tới các tế bào khỏe mạnh, các mô tế bào và các cơ quan trong cơ thể.
8. Trị liệu ban đầu bằng hóa học trị liệu và phóng xạ thường làm giảm kích cỡ khối u... Song sử dụng các biện pháp này lâu dài không tiêu diệt được khối u hoàn toàn.
9. Khi cơ thể nhiễm độc do hóa học trị liệu và tia phóng xạ, hệ thống miễn dịch của cơ thể sẽ trở nên yếu ớt và bị tổn thương, do vậy cơ thể thường
không chống đỡ nổi với bệnh tật và các biến chứng.
10. Hóa học trị liệu và phóng xạ có thể khiến các tế bào ung thư biến chứng và khó tiêu diệt hơn. Phẫu thuật có thể khiến các tế bào ung thư di
căn tới vùng khác trên cơ thể..
11. Một cách hữu hiệu để đối phó với các tế bào ung thư là "bỏ đói" chúng, không cung cấp dưỡng chất khiến chúng có thể sản sinh.
5. Để tránh suy dinh dưỡng đa cấp, thay đổi thói quen ăn uống và bổ sung
thực phẩm sẽ giúp tăng cường khả năng miễn dịch.
6. Hóa học trị liệu bao gồm việc làm nhiễm độc các tế bào ung thư phát triển nhanh, đồng thời cũng tiêu diệt các tế bào khỏe mạnh trong tủy xương và vùng dạ dày - ruột, và có thể gây tổn thương các cơ quan như gan, thận, tim, phổi...v... v..
7. Các tia phóng xạ trong quá trình tiêu diệt tế bào ung thư có thể gây thương tổn tới các tế bào khỏe mạnh, các mô tế bào và các cơ quan trong cơ thể.
8. Trị liệu ban đầu bằng hóa học trị liệu và phóng xạ thường làm giảm kích cỡ khối u... Song sử dụng các biện pháp này lâu dài không tiêu diệt được khối u hoàn toàn.
9. Khi cơ thể nhiễm độc do hóa học trị liệu và tia phóng xạ, hệ thống miễn dịch của cơ thể sẽ trở nên yếu ớt và bị tổn thương, do vậy cơ thể thường
không chống đỡ nổi với bệnh tật và các biến chứng.
10. Hóa học trị liệu và phóng xạ có thể khiến các tế bào ung thư biến chứng và khó tiêu diệt hơn. Phẫu thuật có thể khiến các tế bào ung thư di
căn tới vùng khác trên cơ thể..
11. Một cách hữu hiệu để đối phó với các tế bào ung thư là "bỏ đói" chúng, không cung cấp dưỡng chất khiến chúng có thể sản sinh.
TẾ BÀO UNG THƯ CẦN NHỮNG DƯỠNG CHẤT GÌ?
a) Đường là một trong những dưỡng chất cho tế bào ung thư. Cắt bỏ đường là cắt bỏ nguồn dưỡng chất quan trọng cho tế bào ung thư. Các sản phẩm thay thế từ thiên nhiên là mật ong và mật mia nhưng với một lượng rất nhỏ. Muối bột cũng có chất hóa học tẩy trắng màu muối. Lựa chọn tốt hơn la muối biển.
b) Sữa khiến cơ thể tiết ra niêm dịch, đặc biệt là ở hệ tiêu hóa và hô hấp. Chất niêm dịch là dưỡng chất cho tế bào ung thư. Bằng cách cắt bỏ sữa trong khẩu phần và thay thế bằng sữa đậu nành không đường, tế bào ung thư sẽ bị "bỏ đói" và không tiết dịch.
c) Tế bào ung thư sống sót trong môi trường axit. Khẩu phần ăn chứa nhiều thịt cung cấp nhiều axit. Sẽ tốt hơn nhiều nếu bạn ăn cá và thịt gà thay cho thịt lợn và thịt bò. Thịt gia súc cũng chứa kháng sinh, hormon tăng trưởng và ký sinh không tốt cho cơ thể, nhất là với bệnh nhân ung thư.
d) Khẩu phần ăn có 80% rau xanh và nước ép, ngũ cốc, hạt và chút trái cây sẽ giúp cơ thể sản sinh nhiều kiềm. Khoảng 20% có thể là thực phẩm nấu chín, bao gồm cả đậu. Nước ép rau chứa các enzyme sống, dễ dàng hấp thu và ngấm vào các tế bào trong vòng 15 phút, giúp sản sinh các tế bào khỏe mạnh. Để tạo ra các enzyme sống nhằm sản sinh ra các tế bào khỏe mạnh, hãy thử uống nước ép rau (có giá đỗ) và ăn rau sống(dấp cá) 2 tới 3 lần/ ngày. Các enzyme sẽ bị tiêu diệt ở nhiệt độ 104 độ F (40 độ C)
e) Tránh các chất caffeine như cà phê, trà và sô cô la. Trà xanh chứa chất chống ung thư và là một lựa chọn tốt. Hãy uống nước lọc hoặc nước tinh khiết để tránh chất độc và kim loại nặng trong nước thường. Tránh uống nước cất vì nước này chứa axit.
12. Protein trong thịt khó tiêu hóa và cần tới nhiều enzyme tiêu hóa. Thịt không tiêu hóa nằm nguyên trong ruột, gây thối và tạo ra chất độc cho cơ
thể.
13. Các tế bào ung thư được bao phủ bằng một lớp protein. Bằng cách hạn chế thịt trong khẩu phần ăn, các enzyme sẽ hoạt động dễ dàng hơn trong việc tấn công lớp protein bao phủ tế bào ung thư và giúp các tế bào hủy diệt tự nhiên của cơ thể tiêu diệt tế bào ung thư.
14. Một số các chất tăng cường hệ miễn dịch (IP6, Flor-ssence, Essiac,
a) Đường là một trong những dưỡng chất cho tế bào ung thư. Cắt bỏ đường là cắt bỏ nguồn dưỡng chất quan trọng cho tế bào ung thư. Các sản phẩm thay thế từ thiên nhiên là mật ong và mật mia nhưng với một lượng rất nhỏ. Muối bột cũng có chất hóa học tẩy trắng màu muối. Lựa chọn tốt hơn la muối biển.
b) Sữa khiến cơ thể tiết ra niêm dịch, đặc biệt là ở hệ tiêu hóa và hô hấp. Chất niêm dịch là dưỡng chất cho tế bào ung thư. Bằng cách cắt bỏ sữa trong khẩu phần và thay thế bằng sữa đậu nành không đường, tế bào ung thư sẽ bị "bỏ đói" và không tiết dịch.
c) Tế bào ung thư sống sót trong môi trường axit. Khẩu phần ăn chứa nhiều thịt cung cấp nhiều axit. Sẽ tốt hơn nhiều nếu bạn ăn cá và thịt gà thay cho thịt lợn và thịt bò. Thịt gia súc cũng chứa kháng sinh, hormon tăng trưởng và ký sinh không tốt cho cơ thể, nhất là với bệnh nhân ung thư.
d) Khẩu phần ăn có 80% rau xanh và nước ép, ngũ cốc, hạt và chút trái cây sẽ giúp cơ thể sản sinh nhiều kiềm. Khoảng 20% có thể là thực phẩm nấu chín, bao gồm cả đậu. Nước ép rau chứa các enzyme sống, dễ dàng hấp thu và ngấm vào các tế bào trong vòng 15 phút, giúp sản sinh các tế bào khỏe mạnh. Để tạo ra các enzyme sống nhằm sản sinh ra các tế bào khỏe mạnh, hãy thử uống nước ép rau (có giá đỗ) và ăn rau sống(dấp cá) 2 tới 3 lần/ ngày. Các enzyme sẽ bị tiêu diệt ở nhiệt độ 104 độ F (40 độ C)
e) Tránh các chất caffeine như cà phê, trà và sô cô la. Trà xanh chứa chất chống ung thư và là một lựa chọn tốt. Hãy uống nước lọc hoặc nước tinh khiết để tránh chất độc và kim loại nặng trong nước thường. Tránh uống nước cất vì nước này chứa axit.
12. Protein trong thịt khó tiêu hóa và cần tới nhiều enzyme tiêu hóa. Thịt không tiêu hóa nằm nguyên trong ruột, gây thối và tạo ra chất độc cho cơ
thể.
13. Các tế bào ung thư được bao phủ bằng một lớp protein. Bằng cách hạn chế thịt trong khẩu phần ăn, các enzyme sẽ hoạt động dễ dàng hơn trong việc tấn công lớp protein bao phủ tế bào ung thư và giúp các tế bào hủy diệt tự nhiên của cơ thể tiêu diệt tế bào ung thư.
14. Một số các chất tăng cường hệ miễn dịch (IP6, Flor-ssence, Essiac,
anti-oxidants, vitamins, khoáng chất, EFAs,DeltaImune....) giúp các tế bào hủy diệt tự nhiên tiêu diệt tế bào ung thư. Một số chất khác như vitamin E tạo ra cơ chế tiêu diệt tế bào, một cách thông thường của cơ thể nhằm đào thải các tế bào gây hại hoặc không cần thiết.
15. Ung thư là căn bệnh của thể xác và tinh thần. Một tinh thần lạc quan và sảng khoái sẽ giúp các bệnh nhân ung thư giành giật được sự sống. Giận dữ, căm thù và cay đắng khiến cơ thể bị căng thẳng và tạo ra axit. Hãy học cách sống vị tha và đầy yêu thương. Học cách thư giãn và hưởng thụ cuộc sống.
16. Các tế bào ung thư sẽ không tồn tại được trong môi trường đầy ôxi. Tập thể dục đều đặn, hít thở sâu sẽ giúp các tế bào được nạp đầy đủ ôxi. Liệu ôxi cũng là cách tiêu diệt các tế bào ung thư.
Những quan niệm về năng lượng
sinh học thần kinh trong ngăn ngừa
và điều trị ung thư
sinh học thần kinh trong ngăn ngừa
và điều trị ung thư
Tóm tắt
Ung thư vẫn luôn là một bệnh lý
có nhiều khó khăn trong dự phòng và điều
trị dù đã có những cố gắng lớn trong nghiên cứu và điều trị suốt 30 năm qua.
Các nhà nghiên cứu đã cố gắng giải thích nguyên nhân ung thư thông qua phát
hiện cơ chế tế bào hoặc do đột biến gien. Cho tới nay, những cố gắng tìm tòi
một quan niệm thống nhất về ung thư còn ở mức hạn chế. Chúng tôi đề xuất một
quan niệm về nguyên nhân bệnh ung thư, dựa trên khái niệm về năng lượng sinh
học thần kinh, mà cơ chế trung tâm là tính kích thích quá mức (hyperexcitability),
qua mức độ biểu hiện quá cao của các kênh ion đóng mở theo điện thế, các kênh
đóng mở nhờ phối tử (ligand) và các chất dẫn truyền thần kinh. Căn cứ vào quan
điểm này, có thể hiểu biết tốt hơn nguyên nhân gây ung thư và xây dựng một
chiến lược ngăn ngừa và điều trị ung thư hiệu quả hơn.
Vào đề
Mặc dầu đã có những tiến bộ
trong việc tìm tòi, phát hiện sớm và điều trị ung thư trong 30 năm qua, nhưng
bệnh ung thư vẫn là một thách thức cho những nghiên cứu y sinh học. Vấn đề dự
phòng và điều trị ung thư đã trở thành một miếng đất màu mỡ cho những công
trình nghiên cứu, nhưng những liệu pháp được phát triển từ đó chỉ có tác dụng
làm giảm chút ít về nguy cơ ung thư và làm tăng chút ít về tỷ lệ sống sót,
trong khi những liệu pháp này lại quá đắt tiền và có nhiều tác dụng phụ nặng nề.
Việc nghiên cứu và phát
triển những chiến lược điều trị bệnh ung thư và những bệnh có liên quan dựa chủ
yếu vào mô hình đột biến gien. Những nghiên cứu các con đường dẫn đến sự phát
sinh bệnh, việc phân tích các kiểu đột biến, các mức độ biểu hiện những phân tử
hoạt động sinh học và điều hòa miễn dịch, tất cả nhằm cố gắng tìm hiểu tính
phức tạp của ung thư, của vi môi trường của ung thư, của quá trình sinh ung thư
và di căn đều đã mang lại thất bại trong việc xây dựng một mô hình sinh bệnh
thống nhất trong ung thư. Nhiều chất có
tác dụng hủy diệt hay ức chế nhằm vào các tế bào đích, vào chu kỳ tế bào, vào
các thụ thể của gien. Nhiều chất còn
nhằm vào những con đường chuyển hóa, vào các hormon, vào quá trình tải nạp các tín hiệu, rồi vào sự tạo mạch, vào quá trình chết tế bào theo chương trình đã được phát triển không ngừng trong nhiều năm qua để mong mỏi điều trị được ung thư. Phần lớn những nghiên cứu cơ bản này được thực hiện trên tế bào nuôi cấy hoặc trên súc vật thí nghiệm, nhưng thật đáng tiếc là chỉ mang lại được những hiểu biết hạn chế về bệnh ung thư, như một bệnh của con người.
nhằm vào những con đường chuyển hóa, vào các hormon, vào quá trình tải nạp các tín hiệu, rồi vào sự tạo mạch, vào quá trình chết tế bào theo chương trình đã được phát triển không ngừng trong nhiều năm qua để mong mỏi điều trị được ung thư. Phần lớn những nghiên cứu cơ bản này được thực hiện trên tế bào nuôi cấy hoặc trên súc vật thí nghiệm, nhưng thật đáng tiếc là chỉ mang lại được những hiểu biết hạn chế về bệnh ung thư, như một bệnh của con người.
Một vi môi trường của khối u
có đặc trưng là có những vùng thiếu oxy mạn tính kéo dài hoặc có mức độ thiếu
oxy dao động, không ổn định, có pH dịch ngoại bào thấp, và rất thiếu chất dinh
dưỡng [1]. Một số nhà nghiên cứu có đưa ra ý kiến là các yếu tổ kể trên đã làm
tăng thêm xác suất xảy ra những đột biến gien ngẫu nhiên tự phát, qua đó góp
phần vào sự phát triển khối u.
Trong những công bố trước
đây [3, 4], chúng tôi đã đưa ra giả thuyết là hiện tượng tăng sinh của tế bào
trong ung thư và những bệnh viêm mạn tính như hen có thể có nguyên nhân do tính
kích thích quá mức của màng tế bào do stress, do nhu cầu cao về năng lượng dưới
tác động của các độc tố kích thích nội sinh hay từ môi trường ngoài. Trạng thái
kích thích quá mức của màng tế bào có thể là sự đáp ứng không hợp lý của tình
trạng tế bào thiếu năng lượng, do khi đó tế bào lại phải tiêu thụ thêm nhiều
ATP trong một cố gắng mà không có hiệu quả nhằm làm tăng hiệu số điện thế hai
bên màng tế bào, hoặc nói khác đi là làm
khuyếch đại / thay đổi khuynh độ (gradient) của ion chủ yếu. Điều này sẽ tạo ra
một vòng xoắn cướp đi năng lượng của tế bào và rút cuộc sẽ dẫn tới viêm và khối
u tân sinh [3]. Ở đây còn có nhiều quá trình thích nghi không hợp lý khác cùng
xảy ra. Hiện tượng thiếu oxy và thiếu máu cục bộ là nguyên nhân thường gặp nhất
gây tổn thương tế bào và thường đi kèm với giảm ATP và giảm những phân tử giàu
năng lượng khác. Điều này thường là cơ chế cơ bản của tổn thương được khởi động
do các tác nhân lý, hóa, sinh học và thường dẫn đến stress oxy hóa gốc tự do,
sự
peroxy hóa màng tế bào, làm mất tính toàn vẹn về cấu trúc ion, giảm pH, tăng nhập calci và nước vào tế bào và tăng xuất kali khỏi tế bào. Tuy nhiên, chúng tôi tập trung vào hiện tượng kích thích quá mức, coi như một quá trình tiêu thụ năng lượng không hiệu quả và là mấu chốt trong quá trình sinh ung thư.
peroxy hóa màng tế bào, làm mất tính toàn vẹn về cấu trúc ion, giảm pH, tăng nhập calci và nước vào tế bào và tăng xuất kali khỏi tế bào. Tuy nhiên, chúng tôi tập trung vào hiện tượng kích thích quá mức, coi như một quá trình tiêu thụ năng lượng không hiệu quả và là mấu chốt trong quá trình sinh ung thư.
Những bằng
chứng về cơ chế kích thích quá mức trong sự phát sinh và phát triển ung thư
Các kênh Natri đóng mở theo điện thế
Mặc dầu các kênh Na+
đóng mở theo điện thế (VGSC) và các kênh K+ đóng mở theo điện thế
(VGPC) liên quan đến "kích thích" và thúc đẩy sự dẫn truyền trong các
tế bào thần kinh, nhưng những bằng chứng ngày càng nhiều cho thấy sự biểu hiện
của chúng tại các mô "không kích
thích được" cũng vẫn tồn tại, ngay kể cả tại các tế bào biểu mô [5,6].
Nhiều công trình nghiên cứu
đã chứng tỏ là tại các tế bào ung thư của người hoặc động vật, thì số lượng và
chức năng các VGSC được tăng cao, nhiều khi đi cùng với sự hạ thấp số lượng và
chức năng các VGPC. Những thay đổi này thường làm cho màng tế bào có tiềm năng
dễ bị kích thích quá mức và trạng thái này liên quan đến khả năng dễ phát sinh
ung thư, đến sự lan tỏa và di căn của ung thư tại tuyến tiền liệt [7-9], vú
[10], phổi [11-13], ung thư hắc tố [14], ung thư đại tràng [15]. Mức độ biểu
hiện của VGSC quá cao còn gặp trong u lymphô bào [16] và trong những trạng thái
tiền ung thư ở dạ dày - ruột như loét dạ dày và viêm đại tràng [17, 18].
Các chất ức chế VGSC trong
ung thư
Một số thuốc và hợp chất tự
nhiên thể hiện tác dụng ức chế trạng thái kích thích thông qua tác dụng trên
các kênh Na+ đóng mở theo điện thế. Các chất này cho thấy ngăn chặn
được ung thư: như artemisinin và dẫn chất [3, 19], phenytoin [20], tetrodotoxin
[7, 21], các acid béo nhiều dây nối đôi omega 3 [22, 23] và kava-kava [3].
Glutamat và các thụ thể NMDA
Acid amin glutamat là chất
dẫn truyền thần kinh chủ yếu và có tính kích thích. Đã xác định được một họ lớn
các thụ thể chất dẫn truyền thần kinh glutamat, và chúng được phân loại thành
họ hướng ion (ionotropic) hoặc họ hướng chuyển hóa (metabotropic). Họ thụ thể
hướng ion lại chia làm ba nhóm: nhóm thụ thể N-methyl-D-aspartat (NMDA), nhóm
thụ thể alpha amino-3-hydroxy-5-methyl-4-isoxazole-propionic acid (AMPA), và
nhóm thụ thể kainat.
Đã chứng minh rằng khi đưa
glutamat trực tiếp vào hệ thần kinh trung ương có thể gây các cơn co giật do
tác dụng kích thích (khử cực) trên màng tế bào thần kinh [24, 25]. Một số tác
giả khác đã thông báo là glutamat có thể giết chết các nơrôn ở võng mạc và ở
não, như vậy tác dụng kích thích thần kinh của glutamat có trách nhiệm trong
tác dụng hủy tế bào [25]. Trong những thập niên mới đây, đã chứng minh được
rằng tác dụng kích thích gây độc của glutamat có thể gây thoái hóa nơrôn trong
hoàn cảnh thiếu oxy và trong hầu hết các trạng thái có tổn thương cấp tính ở
não (như đột quỵ, hạ glucose - máu, động kinh và chấn thương đầu). Tác dụng
kích thích gây độc của glutamat trong nhiều trường hợp còn liên kết với việc
thu nhận Ca2+ hoặc huy động ion Ca2+ trong nội bào một
cách không bình thường [26]. Có rất nhiều bằng chứng cho thấy sự truyền tín
hiệu không bình thường do glutamat và / hoặc tác dụng kích thích gây độc của
glutamat là có liên quan đến quá trình sinh bệnh của nhiều bệnh mạn tính ở hệ
thần kinh trung ương, như các bệnh Parkinson, Alzheimer và xơ cứng rải rác [27,
28]. Mặc dầu việc truyền tín hiệu do glutamat đã từ lâu được cho là chỉ tồn tại
ở hệ thần kinh trung ương, nhưng mới đây ngày càng có thêm bằng chứng là những
tế bào không phải là tế bào thần kinh ở khắp cơ thể cũng có những thụ thể
glutamat, trong đó có cả các tạo cốt bào và các hủy cốt bào, các tế bào nhân khổng
lồ (megalokaryocyte), các tế bào sừng, các tế bào tiểu đảo tụy, tế bào nụ vị
giác, các tế bào ở phổi, gan, tim, thận và tuyến thượng thận [3, 29-32].
Các chất đối kháng NMDA và
ung thư
Đã có những báo cáo cho thấy
các chất đối kháng với glutamat tại các thụ thể glutamat NMDA và AMPA hoặc ở
các phức hợp kênh ion đã làm hạn chế được sự phát triển ung thư ở người [33]. Chất dizocilpin đối
kháng với NMDA và chất GYK152466 đối kháng với AMPA đã làm hạn chế sự tăng sinh
các tế bào ung thư ở nhiều loại ung thư thần kinh hay ung thư không thuộc hệ
thần kinh của người. Dizocilpin kéo dài được thời gian sống của chuột nhắt có
ung thư phổi di căn và làm chậm sự phát triển của u nguyên bào thần kinh và
sarcôm cơ vân ở chuột nhắt [32]. Các chất matrine và oxymatrine đối kháng với
thụ thể glutamat đã chứng tỏ có tác dụng chống viêm và chống tăng sinh [3].
Tính chất chống tăng sinh
của các chất đối kháng với glutamat là phụ thuộc vào calci. Đã chứng minh là
các kênh ion - thụ thể glutamat ở những nơrôn phôi có tính thấm với calci [34 -
36]. Calci đóng vai trò quan trọng trong ung thư. Tính chất tăng sinh của ung
thư tỷ lệ thuận với nồng độ calci trong nội bào. Calci kích thích sự phát triển
khối u, điều hòa sự chuyển vận protein qua màng nhân tế bào và đóng vai trò quan
trọng trong sự phát triển, kéo dài và định hướng sợi trục, trong phân chia tế
bào, di chuyển tế bào và trong khả năng sống sót [37 - 39]. Nhiều nhà nghiên
cứu đã chú ý là các tế bào của khối u có điện thế hai bên màng tương đối thấp
lúc nghỉ, và đưa ra một giả thiết đáng lưu ý là chính điện thế thấp này đã tạo
điều kiện cho calci thâm nhập qua các kênh ion đóng mở nhờ thụ thể glutamat với
tốc độ nhanh, và điều đó sẽ kích thích sự tăng sinh và khả năng di chuyển
của tế bào ung thư [29]. Các khối u thần
kinh đệm đã cho thấy có tác dụng phá hủy mạnh các tế bào thần kinh lân cận bằng
cách sản sinh ra glutamat với nồng độ cao [30].
Trong những khối u ở mô thần
kinh, như u thần kinh đệm, u nguyên bào thần kinh, có sự biểu hiện của thụ thể
N-methyl-D-aspartat (NMDA), và điều này có vai trò trong sự tăng sinh tế bào.
Sự biểu hiện quá mức của thụ thể NMDA cũng thấy ở các tế bào ung thư tuyến tiền
liệt, ung thư vú, ung thư đại tràng.
Memantin - chất đối kháng với thụ thể NMDA đã ức chế được sự phát triển
các dòng tế bào ung thư in vitro. L-cystein sulfinic acid, một chất đồng
vận với NMDA, lại kích thích được 30-75% sự tăng sinh của các dòng tế bào này
[31].
Khi bị kích thích, thấy hệ
NMDA tăng sản sinh nitric oxyd thông qua cơ chế tăng xâm nhập Ca2+ vào trong tế bào, tăng nồng độ Ca2+ trong nội bào, gây kích thích các enzym nitric oxyd
synthase nNOS và eNOS
phụ thuộc calci. Nhiều nhóm nghiên cứu đã báo cáo là sự kích thích NMDA quá mức sẽ làm tăng nitric oxyd và dẫn chất oxy hóa của nó là peroxynitrit [40 - 43].
phụ thuộc calci. Nhiều nhóm nghiên cứu đã báo cáo là sự kích thích NMDA quá mức sẽ làm tăng nitric oxyd và dẫn chất oxy hóa của nó là peroxynitrit [40 - 43].
Các chất kích thích NMDA là
những chất gây ung thư
Formaldehyd, cocain, nhiều
dung môi hữu cơ có tác dụng làm tăng nhạy cảm với NMDA và kích thích sự sản
sinh glutamat [44-48]. Formaldehyd đã
được Tổ chức quốc tế về nghiên cứu ung thư và cơ quan bảo vệ môi trường
của Mỹ liệt vào loại chất gây ung thư cho người. Ở những người nghiện cocain
thì nguy cơ phát triển ung thư tăng gấp đôi so với ở người bình thường [49], và
sự tiếp xúc với các dung môi hữu cơ cũng gắn liền với nguy cơ cao về ung thư
[48].
Acetylcholin là chất dẫn
truyền thần kinh có tính kích thích
Trên mô nuôi cấy, đã chứng
minh được là sau một thời gian dài giảm hoạt tính của glutamat, có sự điều
chỉnh tới mức cao các thụ thể của acetylcholin, và làm tăng phần đóng góp của
acetycholin trong việc kiểm soát sự cân bằng về tính kích thích / ức chế. Khi
không có sự kích thích do glutamat ở vùng dưới đồi, thì acetylcholin lúc bình
thường vẫn là chất dẫn truyền thần kinh yếu, thì khi đó sẽ trở thành chất dẫn
truyền thần kinh kích thích chủ yếu và giúp cho cân bằng kích thích / ức chế
được duy trì. Sự tăng tính kích thích trong dẫn truyền thần kinh do
acetylcholin trong lúc sự kích thích do glutamat bị giảm đi coi như biểu hiện
một tác dụng linh hoạt của chức năng thần kinh trong việc điều hòa hoạt tính và
mức hưng phấn của nơrôn khi không có cân bằng giữa glutamat / GABA [50]. Sự
tham gia của các thụ thể glutamat thuộc týp NMDA vào việc điều biến dòng chảy
quá thừa chất acetylcholin và glutamat khi thiếu oxy hoặc khi hạ glucose - máu
đã được nêu lên trong nhiều công trình khoa học. Trong khi thiếu hụt oxy và
glucose, thì các thụ thể glutamat hướng ion thuộc typ NMDA thể hiện hai tác
dụng sau: Tác dụng phản hồi dương tính trong việc điều biến lượng glutamat sản
sinh ra, và tác dụng tham gia vào việc tăng dòng chảy quá thừa acetylcholin
[51]. Glutamat không chỉ làm tăng sự giải phóng acetylcholin, mà còn có tác
dụng hiệp đồng trong việc giải phóng acid arachidonic. Vì glutamat được giải
phóng đồng thời với acetylcholin ở tận cùng dây thần kinh cholinergic, cho nên
glutamat giải phóng ra có tác dụng phản hồi dương tính trong việc tiết ra
acetylcholin [52, 53].
Acetylcholin và ung thư
Trong những nghiên cứu về
rối loạn đường tiêu hóa, đã thấy khi ung thư, thường cholinesterase (ChE) có
hàm lượng thấp. Vì trong sự tăng sinh tế bào ung thư đại tràng ở người, cần
phải có sự kích thích muscarinic, cho nên sự giảm hoạt độ ChE cộng với tăng
lượng acetylcholin khả dụng trong khối u tân sinh ở đại tràng rất có thể làm
tăng sự phát triển khối u [54].
Sự tăng acetylcholin và giảm
ChE cũng góp phần vào sự phát triển khối u tân sinh các tế bào phổi [55]. Ngoài
vai trò đã biết của các thụ thể acetylcholin (Ach R) trong cơ chế sinh nghiện
ngập, nhiều bằng chứng cho thấy nicotin góp phần trực tiếp vào quá trình sinh
ung thư phổi thông qua việc kích thích các thụ thể Ach ở những tế bào không
thuộc hệ thần kinh.
Nicotin là chất chủ vận của thụ thể acetylcholin
(ACh) và kích thích sự phát triển của ung thư phổi. Điều này gợi ý là nếu ung
thư phổi tổng hợp được ACh, thì ACh có thể là yếu tố tăng trưởng tự tác động
cho ung thư phổi. Các tế bào có nguồn gốc ung thư phổi đã đóng góp những
protein cần cho sự tổng hợp và dự trữ ACh không thuộc nguồn gốc thần kinh. Sự
có mặt của một vòng tự tác động cholinergic trong ung thư phổi sẽ tạo cơ sở để
hiểu về tác dụng của nicotin trong sự phát triển của ung thư phổi và có thể
cung cấp những phương pháp điều trị mới về bệnh ung thư phổi [57]. Đã thấy các
tế bào ung thư đại tràng biểu lộ được thụ thể acetylcholin muscarinic, mặc dầu
vai trò chức năng còn chưa được biết rõ ràng [58].
Một chất khác cũng có tính chất tương tự, cấu trúc
hóa học tương tự nicotin, đó là arecolin. Arecolin là alcaloid có trong quả cau
lấy từ cây cau (Areca catechu). Trong phong tục nhiều nước châu Á, có
tục nhai trầu cau để có tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương. Arecolin
là chất chủ vận của thụ thể muscarinic và là nguyên nhân chủ yếu cho các tác
dụng cường giao cảm của chất này. Nhai trầu cau đã được chứng minh là gây được
ung thư [59].
Tác dụng chống ung thư của
các chất ức chế kênh
µ Gamma - amino - n - butyric acid (GABA)
GABA là chất trung gian thần kinh chủ yếu có tính ức
chế trong não động vật có xương sống, ngoài hệ thần kinh trung ương thì GABA
còn tham gia vào nhiều chức năng khác nhau như kết tập tiểu cầu và phản ứng cực
đầu của tinh trùng. Một nghiên cứu mới đây đã cho thấy GABA ức chế được sự di
cư của tế bào ung thư biểu mô, mở đường cho sự phát triển các chất dược lý đặc
hiệu có thể làm chậm hoặc ức chế sự xâm lấn và di căn của các loại ung thư khác
nhau [60].
Cũng đã thử nghiệm những tác dụng của GABA và của
baclofen (là chất chủ vận của thụ thể GABA) trên sự sinh ung thư đại tràng do
dùng azoxymethan trên chuột cống Wistar: Hầu hết mọi khối u ở đại tràng phát
triển ở chuột cống dùng baclofen là thuộc dạng u tuyến, trong khi ở nhóm chứng,
thì những khối u chủ yếu là ung thư hạch. Những kết quả trên cho thấy là nhờ
thông qua thụ thể GABA mà baclofen ức chế được sự lớn lên của u đại tràng [61].
µ Glycin
Glycin là chất phong phú nhất trong tất cả các chất
dẫn truyền thần kinh, có mặt ở hệ thần kinh trung ương. Glycin gặp ở hầu hết
các mô và là chất chủ yếu trong sinh hóa học của các đoạn một - carbon, các
protein, peptid, nucleotid, porphyrin, adenosine triphosphat (ATP) và của muối
mật. Glycin là chất dẫn truyền thần kinh chủ yếu và có tính ức chế, gặp trong
tủy sống và thân não, có tính chống viêm, bảo vệ tế bào và điều biến miễn dịch
[62].
Glycin có chức năng trong tủy sống cũng giống như
GABA trên hệ thần kinh trung ương. Cùng với
chứng minh sự có mặt các kênh clorid qua cửa glycin ở nơ-rôn, ở bạch cầu
và ở các tế bào không - nơrôn khác, cũng đã tìm được cơ chế tác dụng thống nhất
giải thích cho nhiều tác dụng phổ biến của glycin [62].
Những nhà nghiên cứu đã cho thấy một số kết quả gây
ấn tượng khi dùng liều cao glycin để chống ung thư trong các test trên động
vật. Bổ sung glycin cho thấy có thể ngăn ngừa 23% sự tạo các u gan loại nhỏ,
64% với u gan loại nhỏ và ức chế đến 80% với u loại lớn [63] ! Trong một thử
nghiệm về lợi ích của glycin, đã cấy cho súc vật thí nghiệm các u melanin và
cho súc vật ăn, hoặc theo chế độ dinh dưỡng quy ước, hoặc theo chế độ có bổ
sung liều cao glycin. Kết quả là các khối u phát triển nhanh ở nhóm súc vật
dùng chế độ dinh dưỡng quy ước, còn ở nhóm dùng glycin, các khối u nhỏ hơn 50 -
75% [64]. Glycin ức chế in vivo sự
lớn lên của các khối u melanin B16 nhờ chế sự tạo mạch. Công trình
này cũng cho thấy glycin ức chế được sự lớn lên và di cư của các tế bào nội mô
là nhờ hoạt hóa được kênh clorid qua cửa glycin. Kênh này được hoạt hóa sẽ làm
tăng phân cực màng tế bào và phong bế luồng nhập Ca2+, qua đó làm
giảm thiểu tín hiệu thông qua trung gian yếu tố tăng trưởng [65].
Glycin còn ngăn ngừa in vivo ung thư gan và một vài u melanin nhờ ức chế được sự tạo
mạch và sự tăng sinh của tế bào nội mô [66, 67].
µ Magnesi
Magnesi cần để duy trì điện thế màng tế bào và khởi
động sự tổng hợp protein. Magnesi phong bế kênh NMDA (N - methyl - D - aspartam)
theo "kiểu phụ thuộc điện thế". Tuy nhiên, nếu vì lý do nào đó (ví dụ
không đủ năng lượng ATP để duy trì điện thế nghỉ) mà điện tích của bề mặt màng
tế bào bị ngừng làm cho nơ-rôn bị kích thích, thì sự phong bế của magnesi lúc
đó bị vượt qua và kênh sẽ mở [68, 69].
Glutamat hoặc aspartat kết hợp với thụ thể NMDA sẽ
tạo ra luồng nhập của các ion Na+ và Ca2+ vào trong nơ-rôn và luồng xuất của ion K+, qua đó sẽ kích thích nơ-rôn. Các bơm ATP rất cần
để làm cho các ion quay trở lại giúp duy trì trạng thái nghỉ.
Magnesi phong bế được kênh Ca2+, giúp giữ
vững điện thế màng gần với giá trị khi nghỉ. Nếu không còn giữ vững được trạng
thái nghỉ tái cực, ví dụ do hạ glucose - máu hoặc khi bơm bị trục trặc (như khi
thiếu hụt magnesi), thì khi đó nơ-rôn bị kích thích và các kênh lại mở ra. Sự
hỏng hóc của bơm sẽ dần dần làm lượng calci / natri quá mức tồn tại trong tế
bào và cuối cùng sẽ giết chết tế bào [69, 70].
Hơn nữa, các bơm ATP không những chỉ dùng để phục
hồi sự cân bằng ion, mà còn để loại bỏ glutamat dư thừa. Glutamat sau đó được
chuyển hóa cho glutamine, đây là quá trình khác cũng cần đến ATP. Magnesi là
nguyên tố phong bế kênh Ca2+ và khi thiếu Mg sẽ có tăng Ca2+
nội bào qua kênh (và bơm), dẫn tới tăng cả Natri nội bào qua trao đổi (và bơm)
[71, 72]. Magnesi và kali cũng có liên quan với nhau rất chặt chẽ. Magnesi cần
cho chức năng của bơm natri / kali. Khi thiếu hụt magnesi, thì luồng ra của
natri và luồng vào của kali có thể bị hỏng hóc.
Nhiều công trình nghiên cứu thực nghiệm và dịch tễ
học đã cho thấy magnesi có tác dụng phòng và chống ung thư [73]. Một nghiên cứu
của Pháp cho thấy khi tăng nồng độ Mg trong máu có thể làm giảm nguy cơ ung thư
xuống còn một nửa. Một công trình nghiên cứu kéo dài 18 năm cho thấy nam giới
có nồng độ Mg cao sẽ có nguy cơ tử vong vì ung thư và vì các bệnh tim thấp hơn
[74]. Một nghiên cứu mới đây của Thụy Điển cho thấy phụ nữ dùng lượng Mg cao
nhất sẽ có nguy cơ ung thư thấp hơn 40% so với các phụ nữ dùng lượng thấp nhất
của nguyên tố này [75].
Những acid béo thiết yếu
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy acid béo không
bão hòa nhiều nối đôi omega-3 (PUFA) eicosapentaen-oic (EPA) và docosahexaen-oic
acid (DHA) trong các loài cá có thể ức chế sự sinh ung thư [76]. Phương pháp
tác dụng đề xuất có thể liên quan tới sự
sinh tổng hợp các eicosanoid, sự peroxy hóa lipid và các con đường tải nạp tín
hiệu. PUFA ngăn chặn được sự sản xuất tiền ung thư của nitric oxyd (NO) ở đại
thực bào theo cách phụ thuộc liều lượng. PUFA cũng còn ức chế được sự sản xuất
các gốc tự do và các dạng oxy hoạt động. Những nghiên cứu trên ung thư vú [77,
78], đại tràng [79] và tuyến tiền liệt [80] đều cho thấy PUFA có tác dụng có
ích chống lại sự lớn lên của khối u.
Một tính chất khác của PUFA, phù hợp với lý thuyết
của chúng tôi về sự sinh ung thư, tức PUFA làm yếu đi các kênh ion natri và
calci, nên có tác dụng chống loạn nhịp tim và chống co giật trên mô thần kinh.
Cũng thấy rằng tác dụng điều biến của PUFA có sự tương đồng đáng lưu ý với tác
dụng của thuốc tê như lidocain và của thuốc chống co giật như phenytoin.
- Acid folic
Acid folic là vitamin quan trọng thuộc nhóm B, tham
gia vào nhiều con đường enzym, bao gồm sự chuyển hóa từ homocystein sang cystein
và xúc tác cho sự tái methyl hóa để cho methionin. Một trong những tác dụng của
acid folic là làm giảm hàm lượng homocystein. Homocystein là một acid amin có
thể gây độc tính kích thích qua trung gian glutamat và qua thụ thể NMDA [82].
Do có tác dụng kích thích của NMDA, nên homocystein có thể làm tế bào chết theo
chương trình (apoptosis) và tế bào chết do bị kích thích.
Homocystein cũng làm hủy hoại oxy hóa và gây viêm ở
mạch máu. Cộng với vai trò gây bệnh trong thoái hóa thần kinh và bệnh tim, thì
homocystein cũng liên can cả tới ung thư. Một công trình nghiên cứu được công
bố cho thấy người có hàm lượng cao homocystein sẽ có yếu tố nguy cơ về ung thư
cổ tử cung xâm lấn [83]. Giảm hàm lượng homocystein sẽ làm giảm tỷ lệ tái phát
ung thư tuyến ở đại - trực tràng [84]. Những nghiên cứu về acid folic đã gợi ý
vitamin này có chức năng đáng quan tâm trong bảo vệ DNA và RNA của tế bào. Bổ
sung kéo dài folat sẽ mang lại lợi ích làm giảm nguy cơ ung thư đại tràng [85].
Quan niệm về năng lượng
sinh học thần kinh trong sự phát triển ung thư
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có thể có ít nhất
5 yếu tố chủ yếu thúc đẩy sự phát triển ung thư. Những yếu tố đó bao gồm sự
kích thích quá mức, tiêu hao năng lượng, nitric oxyd, metalloproteinase của
chất cơ bản và adenosin. Trong những công bố trước đây về ung thư và hen [3,
4], chúng tôi đã đề cập rộng rãi đến vai trò của những thay đổi của màng bị
kích thích đi kèm với viêm và thay đổi trong ung thư. Sự kích thích quá mức có
thể do kích thích hoặc biểu hiện quá mức của "kênh natri qua cửa điện
thế" (VGSC), sự quá mẫn cảm của các kênh kích thích hoặc của các chất dẫn
truyền thần kinh - tức glutamat và acetylcholin và các thụ thể của chúng -, đi
cùng với sự giảm sút biểu hiện của các "kênh kali qua cửa điện thế"
(VGPC). Một trong những hậu quả của kích thích quá mức là sự kích thích tiêu
glucose qua xúc tác của Na+/K+ - ATPase qua sự tăng nồng
độ natri trong tế bào [86].
Kích thích quá mức và hao
hụt năng lượng
Tế bào ung thư có những tính chất tương tự như ở các
tế bào nơ-rôn tiền sinh mà bị kích thích bởi glutamat. Kích thích quá mức sẽ
tạo sự chênh lệch giữa tiêu hao với cung cấp năng lượng. Những thay đổi này xảy
ra do các tín hiệu của giảm oxy - huyết cũng như do tăng calci tự do trong bào
tương, giảm adenosin triphosphat (ATP), còn do tích lũy adenosin ở ngoại bào
(tiết ra do sự phân rã của ATP) [87].
Theo quan niệm của chúng tôi, những tế bào và mô mỗi
khi trở nên tăng sinh hoặc ác tính sẽ phải chịu đựng trạng thái kích thích quá
mức do các cơ chế năng lượng sinh học thần kinh. Điều này rất giống với cơ chế
phát triển của hệ thần kinh trong sự phát triển phôi, khi tạo hình phôi thai và
trong sự tu sửa khi bị chấn thương thần kinh. Tuy nhiên, điều kiện kích thích
quá mức này còn làm cho hao hụt năng lượng tế bào, rối loạn chuyển hóa và kích
thích sự phát triển của khối u, tạo đột biến, xâm chiếm và di căn. Với một cơ
thể trẻ trung cường tráng theo chế độ dinh dưỡng bình thường, có khả năng giải
độc và có hàm lượng ATP đầy đủ, thì tế bào có thể làm triệt tiêu các yếu tố
kích thích (ví dụ các ngoại độc tố, hormon, stress, chiếu xạ v.v...) và loại
trừ những điều kiện cơ bản (ví dụ nhiễm khuẩn mạn tính) và cuối cùng, trạng
thái kích thích quá mức sẽ được giải quyết. Nhưng một khi sự mất cân bằng về
năng lượng sinh học thần kinh không thể giải quyết được, thì sẽ kéo theo phát
triển sự rối loạn trong chuyển hóa và tiến tới hiện tượng viêm, loạn sản và ác
tính. Điều này tương tự như khi sửa chữa điều trị các vết thương: không có năng
lượng cần thiết thì không thể chữa khỏi hoàn toàn được vết thương!
Bơm trao đổi natri / kali phải tiêu thụ nhiều năng
lượng. Theo tính toán, có tới 25 - 40% hoạt tính chuyển hóa ở động vật có xương
sống (tức sự tiêu thụ ATP) là dành cho bơm này. Có tới 80 - 90% tổng lượng
glucose trong vỏ não có thể dành cho sự đòi hỏi năng lượng của dẫn truyền thần
kinh glutamatergic [88]. Sự chuyển hóa của glutamat tích lũy ở tế bào hình sao
để sang glutamin đòi hỏi năng lượng lấy từ sự tiêu glucose. Sự đòi hỏi này tạo
một xung cho sự cung cấp glucose và sau đó tế bào hình sao sẽ tiết lactat để
oxy hóa bởi nơrôn. Đã thấy có sự liên quan quan trọng về lượng giữa sự sử dụng
glucose với sự tạo nên glutamin [89]. Những hiện tượng trên đây có thể cắt
nghĩa vì sao những tế bào ung thư phụ thuộc đặc trưng vào sự tiêu glucose, sự phân
rã kỵ khí của glucose sang ATP kể cả khi có mặt oxy. Sự tiêu glucose kỵ khí và
tạo acid lactic được biết đến như tác dụng Warburg và coi như hậu quả của rối
loạn điều hòa năng lượng hơn là nguyên nhân trong sự phát triển ung thư. Để bù
trừ vào nhu cầu cao về glucose trong ung thư, cần phải đẩy mạnh sự tân tạo
glucose ở gan từ các acid amin và acid
béo, điều này dẫn tới trạng thái bệnh lý rất quen biết trong ung thư là suy mòn cơ thể!
béo, điều này dẫn tới trạng thái bệnh lý rất quen biết trong ung thư là suy mòn cơ thể!
Để tránh vi môi trường không thuận lợi, tránh sự hao
hụt năng lượng trong mô ban đầu, thì các tế bào ung thư có thể phải chuyển dịch qua di cư và di căn về phía
những môi trường mới và tới những nguồn năng lượng mới [3]. Tuy nhiên, khi
những con đường kích thích quá mức vẫn tiếp tục, thì quá trình tương tự về rối
loạn điều hòa năng lượng có thể xảy ra ngay tại mô hoặc cơ quan bị di căn.
Tính kích thích quá mức và
nitric oxyd (NO)
Tính kích thích do kích thích kênh phụ thuộc cửa
điện thế có thể dẫn tới luồng nhập Na+ và tiết glutamat; như vậy sẽ
làm tăng sản xuất hydro peroxyd (H2O2) và NO. Stress oxy
hóa được tạo nên bởi H2O2 sẽ đem theo gánh nặng Na+
ở tận cùng thần kinh kèm hao hụt ATP, rối loạn điều hòa Ca2+ và Na+
và phân rã điện thế mang ty lạp thể, rút cuộc tạo tác dụng vòng xoắn luẩn quẩn
về tính kích thích quá mức, stress oxy hóa và hao hụt năng lượng [90].
Luồng nhập Ca2+ sẽ kích thích NO synthase
(NOS), vì vậy làm tăng nồng độ NO. Sự sản xuất quá nhiều NO do kích thích quá
mức (và không thích hợp) enzym nNOS có thể là trung gian cho thành phần chủ yếu
của sự hư hại do độc tính kích thích.
Trong điều kiện bình thường, NO có nhiều vai trò
sinh lý khác nhau bao gồm làm dãn mạch, kiểm soát sự biểu lộ gene giữa các tế
bào, tăng cường miễn dịch và làm lành vết thương nhờ làm tăng tuần hoàn và ức
chế sự kết tập tiểu cầu.
Nhưng khi hàm lượng NO tăng kéo dài sẽ gây nên những
tác dụng bệnh lý của viêm mạn tính, bệnh tự miễn, gây đột biến và ung thư. NO
tham gia gây ung thư do gây cảm ứng sự đột biến gene và ức chế sửa chữa DNA. NO
làm tăng đột biến gene gấp 40 lần sự đột biến tự phát [91]. Những tế bào u và
các tế bào miễn dịch kèm theo, tất cả đều có thể sản xuất NO [92]. Hàm lượng NO
cao hơn có thể gây độc tế bào trên các tế bào u thông qua stress oxy hóa, hư
hại DNA qua hủy hoại chuyển hóa năng lượng và rối loạn điều hòa chuyển hóa
calci [91].
Tính kích thích quá mức và
trục các yếu tố trưởng thành giống - Insulin
Glutamat và kích thích NMDA cũng làm tăng sản do bảo
vệ và bù trừ trục các yếu tố trưởng thành giống - insulin [93 - 95]. Vai trò
của yếu tố -1 trưởng thành giống - insulin (IGF-1) trong bệnh ung thư đã được
nghiên cứu trong nhiều năm, nhưng mới đây đã có thêm chất lượng và số lượng các
bằng chứng [96]. Một số nghiên cứu tiếp theo có sử dụng máu bảo quản tập hợp
đến 14 năm trước khi bệnh khởi đầu đã cho thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa
IGF-1 với ung thư tuyến tiền liệt, ung thư vú tiền mãn kinh và ung thư đại
tràng [97-99].
Nhiều chiến lược điều trị khác nhau đã chọn đích là
thụ thể IGF-1 đã chứng minh hoạt tính chống tân sinh rõ rệt ở các mô hình thực
nghiệm và gần đây đã bắt đầu các thử nghiệm lâm sàng với nhiều thuốc mới [100].
Hấp dẫn hơn nữa là 2 công trình nghiên cứu mới đây
cho thấy sự biểu lộ của thụ thể IGF-1 có liên quan rõ rệt tới kéo dài sự sống
sót ở bệnh nhân ung thư phổi tế bào không nhỏ hoặc bị sarcôm mô mềm rất ác tính
[101, 102].
Tính kích thích quá mức và
hoạt hóa metalloproteinase ở chất cơ bản
Sự sản xuất quá mức metalloproteinase ở chất cơ bản
(MMP) trong ung thư từ lâu đã được biết là có tương quan chặt với sự tiến triển
và di căn của ung thư. Tuy nhiên, những kết quả khi dùng các chất ức chế MMP có
phổ rộng để điều trị bệnh nhân ung thư tiến triển cũng bị thất bại trong nhiều
trường hợp [103]. Nhiều nghiên cứu liên quan đến các bệnh lý võng mạc cho thấy
cơ chế kích thích qua hoạt hóa NMDA và tổng hợp NO chịu trách nhiệm về sự hủy
hoại mô qua sự sản xuất quá mức MMP và
khả năng làm giáng hóa chất cơ bản ngoài tế bào và giáng hóa màng cơ bản [104 -
105]. Quá trình này cũng gặp ở sự lớn lên của phôi bào và trong sự tạo hình của
mô đòi hỏi phải có di chuyển tế bào và tạo lập vi môi trường mới. Cũng theo
cách thức như trên, sự tăng sản xuất MMP do kích thích quá mức màng cơ bản có
thể gây phát triển, sự tuần tiến và di căn của tế bào ung thư.
Adenosin
Adenosin là nucleosid nhóm purin có mặt với hàm
lượng cao hơn trong các u rắn do giảm oxy - huyết tại chỗ. Adenosin là sản phẩm
phân rã của APT/AMP và có thể gây gián phân, tăng sinh tế bào u, tạo mạch và di
cư tế bào và còn ức chế được đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào để chống
sự lớn lên của khối u [106, 107]. Những nghiên cứu đã cho thấy adenosin kích
thích sự tăng sinh của các tế bào ung thư biểu mô tuyến vú [107]. Kết quả cuối
cùng của sự tích lũy adenosin là làm tăng sự tồn tại và phát triển của khối u
qua cơ chế kép là tạo mạch và ngăn chặn chức năng miễn dịch chống ung thư
[108].
Những chất đối kháng ở thụ
thể adenosin chứng tỏ có tác dụng chống ung thư
Theobromin là chất đối kháng ở thụ thể adenosin và
có tính chất chống tạo mạch ở nhiều loại
ung thư khi thử nghiệm sự tạo mạch da của chuột nhắt trắng Balb/c [109]. Cafein
cũng có tác dụng hiệp đồng với thuốc hóa học trị liệu chống ung thư biểu mô di
căn và chống u lymphô bào ở xương và mô mềm [110]. Những dữ liệu trên đây cho
thấy cafein và các dẫn xuất methylxanthin khác có thể cải thiện kết quả lâm
sàng ở bệnh nhân trước và sau khi chẩn đoán bệnh di căn và có thể hiệp đồng làm
giảm tỷ lệ bệnh và tỷ lệ tử vong đi cùng với sự lan tỏa của các khối u [111 -
113].
Với phụ nữ, thì những người thường uống cà-phê sẽ có
giảm nguy cơ ung thư đại tràng [114] và ung thư vú tiền mãn kinh [115]. Một
nghiên cứu khác cũng xác định là có liên quan nghịch giữa uống cà-phê với tỷ lệ
tử vong do u gan [116]. Adenosin là yếu tố tiền viêm trong các bệnh như hen phế
quản và khí thũng [117, 118] và là chất gây cảm ứng sự xơ hóa gan [119].
Chiến lược chống ung thư
Chúng tôi suy đoán là những đích quan trọng nhất để
chiến đấu và ngăn ngừa ung thư là loại trừ các yếu tố kích thích và tạo các
điều kiện thuận lợi cho cơ thể để phục hồi điện thế màng lúc nghỉ. Nghĩ rằng
nhiều chiến lược như vậy có thể thực thi, chúng tôi thấy yêu cầu cốt yếu là
phải làm giảm sử dụng năng lượng (ATP) để hỗ trợ cho năng lượng sinh học của tế
bào. Như vậy, mỗi một sự giảm tiêu hao năng lượng bằng cách làm giảm sự biểu lộ
/ chức năng của VGSC, giảm hoạt tính glutamat / NMDA, giảm các cơ chế kích
thích khác đều có tác dụng bảo vệ chống ung thư.
Đã thấy sự duy trì bằng định nội môi ion và các tính
chất của màng nơ-rôn sẽ được cải thiện khi làm giảm hoạt tính của các kênh Na+
qua cửa điện thế trong khi bị giảm oxy - huyết cấp tính [120]. Sự phá vỡ ngăn
chặn tạo ATP ở ty lạp thể sẽ kích thích hoạt tính của NMDA [121, 122], cho nên
nếu ức chế được sự tiết glutamat, ức chế thụ thể NMDA hoặc ức chế các cơ chế
kích thích khác thì sẽ có thể có vai trò quan trọng trong tiếp cận ngăn ngừa và
chữa ung thư.
Phù hợp với lý thuyết của chúng tôi về sự phát triển
ung thư, thấy tế bào sẽ bị thay đổi dưới điều kiện stress oxy hóa, khi thiếu
năng lượng ATP và khi vi môi trường nằm trong trạng thái bệnh lý. Các phân tử
năng lượng của sự vận chuyển màng tế bào, tức ATP và AMP, đã có tác dụng chống
ung thư rõ rệt [123].
Như trên đã ghi, làm giảm tích lũy adenosin nhờ
trung hòa hoặc phong bế các thụ thể adenosin cũng có thể tạo những tác dụng
thuận lợi chống các bệnh viêm và ung thư. Phối hợp các biện pháp như làm triệt
tiêu sự kích thích quá mức, dùng chất đối kháng adenosin, tăng thu nhập các
chất làm tăng năng lượng (lysine, carnitin, các fumarat...) sẽ có thể là cách
tiếp cận có ích để quản lý bệnh ung thư.
Tóm lại
Quan niệm của chúng tôi về quá trình sinh ung thư
bao gồm sự biến đổi gây ung thư của các tế bào lành khi bị stress do màng tế
bào bị kích thích quá mức và luôn ở trạng thái tiêu hao nhiều năng lượng kéo
dài (hoặc tác nhân gây tiêu hao năng lượng), đi cùng với các cơ chế thích nghi
về năng lượng động học của tế bào và với stress oxy hóa. Các điều kiện trước
hết để sinh ung thư có thể bao gồm nhiễm khuẩn mạn tính, tia bức xạ, các chất
độc (các độc tố gây kích thích như nicotin, rượu, cocain, dung môi hữu cơ,
formaldehyd), các acid amin gây kích thích trong thực phẩm (ví dụ glutamat và
aspartat), các hormon/estrogen, sự mẫn cảm với các yếu tố kích thích do tác động
quá mức vào các thụ thể glutamat / N-methyl - D - aspartat (NMDA), và còn là sự
thiếu hụt các chất dinh dưỡng có tính ức chế trong khẩu phần hằng ngày (như
magnesi, glycin, acid folic, taurin, các acid béo nhiều dây nối đôi, lysin).
Hậu quả lâu dài của các stress kể trên trước hết là làm cho màng tế bào dễ bị
kích thích do phải thích ứng với hoàn cảnh, kéo theo làm tiêu hao ATP. Trong
những biến đổi nói trên, thấy có hiện tượng tăng các kênh Natri đóng mở qua
điện thế (VGSC), các kênh đóng mở nhờ các phối tử (ligand) và tăng hàm lượng
các chất dẫn truyền thần kinh (tăng glutamat và acetylcholin). Sự điều chỉnh
tích cực tính kích thích quá mức của màng tế bào sẽ làm tăng nhu cầu năng
lượng, nhưng những thay đổi của tế bào để thích nghi luôn luôn không đủ thỏa mãn,
nên đòi hỏi phải tăng tiêu hao ATP để điều khiển các kênh ion phụ thuộc ATPase.
Những biến đổi này sẽ làm tăng tổng hợp nitric oxyd và kèm theo đó là stress
oxy hóa, là hoạt hóa chất nền các metalloproteinase (MMP), tạo thành adenosine
gây cảm ứng viêm, là tạo mạch và gây tổn thương các mô và suy giảm miễn dịch.
Để cải thiện các stress nói trên, thì sự tăng lượng các yếu tố tăng trưởng
giống insulin (IGF = insulin - like growth factor) cũng là một khuynh hướng
thích nghi của cơ thể. Khi đó, tế bào có thể phát triển theo hai hướng: một là
loạn sản tế bào, tạo các vết thương, vết loét, xơ hóa, và tế bào sẽ chết, hai
là tế bào tăng sinh, thoái biến trở thành ung thư, di cư và di căn. Một số công
trình nghiên cứu cho thấy là tế bào phát triển theo hướng nào là tùy thuộc vào
nồng độ của nitric oxyd: nồng độ nitric oxyd cao sẽ gây chết tế bào, còn nồng
độ nitric oxyd thấp sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tế bào tăng sinh và tạo ung
thư (bảng 1) [91].
Như chúng tôi đã nêu, ở đây các độc tố gây kích
thích nội sinh và ngoại sinh đã đóng vai trò quyết định trong sinh bệnh học của
ung thư: các độc tố này có thể truyền từ thế hệ tế bào này sang những thế hệ tế
bào sau, thậm chí truyền tới những người con của bệnh nhân ung thư theo những
cơ chế di truyền học thông thường và di truyền học biểu sinh.
Như vậy có thể cắt nghĩa một phần nào về sự liên kết
giữa ung thư theo dòng dõi di truyền với sự tiếp tục mắc ung thư qua các thế hệ
[124]. Điều này chứng minh giá trị của sự khử độc như cách tiếp cận có sức mạnh
để ngăn ngừa và điều trị ung thư.
Muốn điều trị có kết quả bệnh ung thư, cần phải nhằm
vào một số phạm vi then chốt của rối loạn chức năng như kích thích quá mức màng
tế bào, thiếu hụt ATP, sự tạo nên adenosine và chống ngộ độc. Chúng tôi đã phác
thảo một số yếu tố kích thích có thể tham gia gây những thay đổi trong ung thư
(bảng 2). Sự phát triển tiếp theo về các chất
ức chế kênh có thể cho ta hình ảnh mới về các chất dùng để phòng ngừa và
điều trị ung thư.
Phát hiện và loại trừ các cơ chế kích thích, sử dụng
các chất đặc hiệu, chú ý đến môi trường, dinh dưỡng và lối sống lành mạnh có
thể là con đường hữu hiệu để ngăn ngừa ung thư và các bệnh viêm và cả để ngăn
ngừa nhiều rối loạn thoái hóa khác liên quan đến tuổi tác.
Bảng 2: Các yếu tố kích thích / ức chế
Kích thích
|
Ức chế
|
Acid
aspartic, glutamat
Glutamat /
chất cảm ứng NMDA
Acetylcholin
/ chất chủ vận acetyl-cholin
Homocystein,
L-homocysteat
Dung môi
hữu cơ, aflatoxin
Độc tố của
nấm, aconit
Formaldehyd,
thuốc diệt côn trùng
Ngoại độc
tố / benzene
Nicotine,
cocaine, rượu
Chiếu xạ,
hư hại do tia cực tím
Nhiễm khuẩn
mạn tính
Estrogen
Histamin,
dopamin
Hư hại mô
Lối sống
căng thẳng
|
Taurine,
glycine, theanine
GABA / chất
chủ vận GABA
Chất đối kháng
acetylcholin
Vitamin B6,
vitamin D, acid folic
Magnesium
PUFA
omega-3
Ức chế VGSC
Chất chủ
vận VGPC
Matrine /
oxymatrine / Vinpocetine
Các chất
làm dịu, ví dụ Kava - Kava
Progesterone,
agmatine
Melatonin
Chất chống
co giật (ví dụ phenytoin)
Thư giãn,
chống nhiễm độc.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét