Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Tác dụng điều trị của Apha-Liopoc

Tác dụng điều trị của Apha-Liopoc
13:41 3 thg 5 2012Công khai54 Lượt xem


0 

THIOGAMMA-Inject
Hoạt chất ALA (alpha lipoic acid) chữa được nhiều bệnh
Alpha lipoic acid (ALA) được phát hiện bởi nhà enzyme học Irwin Gunsalus của đại học Illinois vào năm 1948 và được mô tả và đặc trưng bởi nhà hóa sinh học J. Lester Reed của Đại học Texas Tháng Ba 1951. Tuy nhiên, ALA chỉ được chú ý trong hai thập niên gần đây.Các nhà nghiên cứu nhận thấy ALA được tạo ra với một lượng rất nhỏ ở thú vật, thực vật và người. ALA rất cần thiết cho sự tăng trưởng và những chức năng bình thường của cơ thể. Năm 1989, ALA được “phong danh hiệu” là một chất chống oxy hóa (antioxidant). Hai năm sau, TS. Lester Packer khám phá ra ALA không chỉ là một phần của “đường dây” chống oxy hóa (bao gồm vitamin C, vitamin E, glutathion, coenzym Q10) mà nó có khả năng chống oxy hóa mạnh hơn những chất chống oxy hóa khác. Những nghiên cứu ở phạm vi rộng đã gợi ý rằng ALA có thể là chất chống lão hóa kỳ diệu trông đợi.
Alpha Lipoic Acid (ALA, thioctic acid) là sản phẩm dinh dưỡng hoàn toàn tự nhiên giống như một loại vitamin mà gần đây được tập trung nghiên cứu như một thuốc có tác dụng điều trị rất nhiều bệnh liên quan đến hệ thần kinh, tim mạch, hệ miễn dịch và hệ thống chống độc của cơ thể. ALA tồn tại 2 dạng cấu trúc đồng phân đối quang và đồng phân lập thể: R-(+)-lipoic cid (RLA) và S-(-)-lipoic acid (SLA). ALA được sản xuất ra từ gan và các mô khác một lượng rất nhỏ, mà những nơi này rất cần ALA vì nó cần thiết cho các enzymes xúc tác các phản ứng hóa học cần thiết diễn ra trong cơ thể.Ví dụ, ALA là rất cần cho ty thể của tế bào để chuyển hóa glucose (đường) và tổng hợp ATP (năng lượng) cho cơ thể.ALA là một chất bổ dưỡng đa năng bởi vì bên cạnh giữ vai trò cho enzyme hoạt động sản xuất năng lượng, nó còn hoạt động với nhiều cơ chế và thể hiện các tiềm năng dược lý và chống oxy hóa rất đa dạng. Các phát hiện gần đây, khả năng của ALA làm thay đổi sự điều hòa một số gen liên quan đến sự sống còn của tế bào, chống viêm và chống lại các stress của các chất oxy hóa. Hơn thế nữa, bản thân ALA là một siêu cường chống oxy hóa và đảm bảo cho vô số các chức năng sống khác liên quan đến khả năng điều chỉnh sự hoạt động của rất nhiều gen khác nhau. Vì vậy, ALA không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp mà còn gián tiếp hỗ trợ “kích hoạt” những chức năng của tế bào bị suy giảm hoặc tê liệt giúp cho các tế bào hồi phục các chức năng của chúng và làm cho cơ thể trẻ hóa lại một cách hoàn toàn tự nhiên.
ALA là 1 coenzym quan trọng có tính chống oxy hóa và chống bệnh tiểu đường.ALA tác động như là đồng yếu tố trong phức hợp pyruvate dehydrogenase, phức hợp alpha-ketoglutarate dehydrogenase và phức hợp aminoacid dehydrogenase. ALA giảm được thấy ở những bệnh nhân xơ gan, tiểu đường, xơ vữa động mạch và viêm đa thần kinh .
ALA có thể chuyển hoá từ dạng oxy hóa (với cầu disulfua trong phân tử sang dạng khử (dạng dihydro với 2 nhóm sulfua tự do). Cả 2 dạng đều có khả năng chống oxy hóa mạnh, bảo vệ tế bào khỏi sự tấn công của các gốc tự do.

RLA được được sử dụng trong một thử nghiệm lâm sàng liên bang tài trợ cho bệnh đa xơ cứng tại Oregon Y tế và Đại học Khoa học. R-lipoic acid (RLA) hiện đang được sử dụng trong hai thử nghiệm lâm sàng liên bang tài trợ tại Đại học Oregon State để kiểm tra ảnh hưởng của nó trong việc ngăn ngừa bệnh tim và xơ vữa động mạch. Axit Alpha-lipoic được chấp thuận ở Đức như là một loại thuốc để điều trị polyneuropathies, chẳng hạn như tiểu đường và cồn polyneuropathies, và bệnh gan.
Lipoic acid đã là chủ đề của nhiều nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng:

  • Giảm rối loạn chức năng nội mô và cải thiện albumin
  • Điều trị hoặc ngăn ngừa bệnh tim mạch
  • Đẩy nhanh lành vết thương mãn tính
  • Giảm mức độ của ADMA trong bệnh tiểu đường bệnh nhân bệnh thận giai đoạn cuối vào chạy thận nhân tạo
  • Giảm tình trạng quá tải sắt
  • Điều trị hội chứng chuyển hóa
  • Cải thiện hoặc ngăn chặn các rối loạn chức năng nhận thức liên quan đến tuổi tác
  • Ngăn chặn hoặc làm chậm sự tiến triển của bệnh Alzheimer
  • Ngăn ngừa rối loạn chức năng cương dương
  • Ngăn ngừa chứng đau nửa đầu
  • Điều trị bệnh đa xơ cứng
  • Điều trị các bệnh mãn tính liên quan với sự căng thẳng oxy hóa
  • Giảm viêm
  • Ức chế sản phẩm glycation cuối (AGE) 
  • Điều trị bệnh động mạch ngoại vi. 

Tác dụng chống oxy hóa:
Dạng khử của ALA có khả năng loại bỏ các gốc superoxide, hydrogen peroxide,lipid peroxy (theo Kagan và cộng sự, Suzuki và cộng sự năm 1992). Các gốc tự do này gây vỡ hồng cầu. Trong nghiên cứu in vitro lipoic acid dạng khử hay dạng oxy hóa giúp bảo vệ hồng cầu chống các gốc tự do.
Acid Alpha Lipoic làm tăng hoạt tính các chất chống gốc tự do trong cơ thể. Đặc biệt, ALA có khả năng khôi phục các chất chống gốc tự do, đặc biệt là Glutathion (một chất không thể bổ sung đơn độc bằng đường uống vì dễ bị phân hủy và thường bị giảm do bệnh lý gan, ung thư, tuổi già, AIDS, ngộ độc thuốc...).
Tác dụng hạ đường huyết
ALA kết hợp với insulin làm cho sử dụng glucose hiệu quả hơn. Ở động vật, ALA giảm đường huyết và tăng sinh glycogen ở gan; ở người, ALA giảm nồng độ pyruvic acid (Fachinfo:Thioctacid 1996). ALA cũng cải thiện tác dụng của insulin lên chuyên chở glucose ở cơ khung và chuyển hóa ở người và động vật đề kháng insulin (Henricken và cộng sự 1997). ALA giúp thu nhận glucose từ tế bào (Bashan và cộng sự 1993).
ALA cải thiện tính nhạy cảm với insulin ở bệnh nhân tiểu đường type 2: Theo một nghiên cứu năm 1996 ở bệnh viện đại học Bulgary khoa nội tiết, cho 12 người bệnh TD2 uống ALA 600 mg ngày 2 lần trong 4 tuần, 12 người khác dung nạp glucose bình thường làm nhóm chứng để thử độ nhạy với insulin. Cuối thời gian điều trị, những người uống ALA tăng nhạy cảm insulin ngoại vi.
Trong hơn 30 năm, các bác sĩ ở Đức đã điều trị lâm sàng bệnh tiểu đường với alpha lipoic acid. Nghiên cứu trên toàn thế giới đã chứng tỏ khả năng của alpha lipoid acid bình thường hóa thu nhận glucose và sử dụng glucose. Trong một nghiên cứu, alpha lipoid acid cho thấy có khả năng phòng ngừa bệnh tiểu đường ở 70% động vật thử nghiệm. Trong một nghiên cứu khác, bệnh nhân tiểu đường type 2 uống ALA 500 mg mỗi ngày và sau 10 ngày thấy insulin tăng chuyển hoá 30% lượng glucose (Nagamatsu et al: Lipoic acid improves nerve blood flow, reduces oxidative stress and improve distal nerve conduction in experimental diabetic neuropathy. Diabetes Care 1995 số 18).
Tác động lên bệnh thần kinh do tiểu đường
Bệnh thần kinh do tiểu đường là dấu hiệu và triệu chứng rối lọan thần kinh ngoại vi ở bệnh nhân tiểu đường, sau khi đã loại ra những nguyên nhân khác có thể gây ra bệnh này. Cơ chế sinh bệnh đề nghị cho bệnh này gồm có:
 A. Tăng lưu thông qua đường chuyển hóa polyol, đưa đến tích tụ sorbitol, giảm inositol trong cơ bắp, kết hợp với giảm họat động N+/K+-ATPase.
  B. Hư hại vi mạch bên trong dây thần kinh và thiếu oxy do mất hoạt động nitric oxide do tăng hoạt động gốc tự do oxy.
 ALA làm chậm lại hay đảo ngược bệnh thần kinh ngọai vi do tiểu đường qua nhiều hoạt động chống oxy hóa. Điều trị với ALA tăng glutathione khử, một chât chống oxy hóa nội sinh. Trong nghiên cứu lâm sàng, 600 mg ALA /ngày đã chứng tỏ cải thiện bệnh thần kinh do thiếu ALA.
Một nghiên cứu của Viện hàn lâm y khoa Nga được đăng trên Diabetes Care tháng 3 năm 2003 nghiên cứu trên 120 bệnh nhân tiểu đường chuyển hóa ổn định, với triệu chứng cảm giác vận động bệnh đa thần kinh (polyneuropathy) do tiểu đường, được điều trị ngẫu nhiên bằng truyền tĩnh mạch 600 mg ALA hay giả dược trong 5 ngày mỗi tuần với 14 lần điều trị. Sau 14 lần điều trị, điểm trung bình tất cả triệu chứng giảm so với mức ban đầu là 5.7 ở nhóm dùng ALA và 1.8 ở nhóm dùng giả dược.
Tổn thương thần kinh hay bệnh dây thần kinh ảnh hưởng hơn 50% bệnh nhân tiểu đường và là một trong những biến chứng gây tai hại nhất. Một nghiên cứu đăng trên Diabetic Care cho thấy điều trị với ALA có thể tái tạo một phần chức năng của dây thần kinh chỉ sau 4 tháng uống liều cao ALA (Jacob S et al: Improvement of insulin-simulated glucose-disposal in type 2 diabetes after repeated parenteral administration of thioctic acid. Exp. Clin endocrinol diabetes 1996).
Tác dụng trên não bộ
ALA có thể vượt qua hàng rào máu não dễ dàng , nó có tác dụng bảo vệ trên não bộ và tế bào thần kinh, nhất là giúp ngăn chặn sự suy thoái của não bộ
 Trong một nghiên cứu được thực hiện tại Viện sức khỏe tâm thần Mannheim (Đức), những con chuột già bị lão hóa trí nhớ do tuổi tác được cung cấp ALA đã hoạt động tốt hơn cả những con chuột chỉ bằng một nửa tuổi của chúng. ALA không có tác dụng cải thiện ở những con chuột trẻ bởi vì chúng đã có sẵn ALA cần thiết.
ALA và ung thư
Tất cả chúng ta đều tạo ra những tế bào ung thư một vài lần trong cuộc đời, nhưng một hệ thống miễn dịch khỏe mạnh sẽ chặn đứng những tế bào này, chỉ khi nào hệ thống miễn dịch bị suy yếu thì những tế bào ung thư này mới có cơ hội tăng trưởng và phát triển thành bệnh ung thư.
ALA có khả năng tăng cường miễn dịch, cũng như có khả năng ngăn cản ung thư bằng cách loại bỏ những gốc tự do gây khởi phát ung thư. ALA kết hợp với những chất chống oxy hóa khác có thể phát huy tối đa khả năng chống ung thư. Đối những trường hợp đang điều trị ung thư, những thí nghiệm ở động vật cho thấy ALA có thể trung hòa tác động gây độc của phóng xạ và những nghiên cứu ở người cho thấy ALA có thể làm giảm tác động có hại của hóa trị liệu.
Tác dụng trên bệnh tim mạch
ALA có thể giảm cholesterol tới 40%.
Theo một nghiên cứu được công bố trong tạp chí Diabetes Research and Clinical Practice (12/2004), ALA có khả năng bảo vệ thành mạch máu khỏi tác động của các gốc tự do khi có sự hiện diện của một nồng độ cao triglycerid.
Tác dụng hạn chế sự lão hoá
ALA chống lại sự tạo thành AEG  (glucose protein) nên chống lại các biểu hiện lão hóa. Người cao tuổi (nhất là người bị đái tháo đường) thường có nhiều phức AGE  nên bị các bệnh đục thủy tinh thể, xơ cứng mạch máu, thoái hóa khớp..., làm cho da có những vết nhám, đồi mồi, nhăn, giảm tính đàn hồi. Tiến sĩ Nicholas Perricone chuyên khoa về da liễu tại Trung tâm y tế  Đại học Yale University khám phá ra ALA có khả năng làm giảm vết nhăn, làm căng mí mắt, mắt giảm quầng thâm.


Tác dụng của ALA trong điều trị các tổn thương về gan


Nghiên cứu quy mô lớn đầu tiên sử dụng ALA để điều trị tổn thương gan trên người bệnh ở Mỹ đã được thực hiện vào những năm 1970 bởi Berkson và Frederick C. Bartter và các nhà khoa học tại Viện Y tế Quốc gia (NIH). Trong 79 người bị tổn thương gan nghiêm trọng, 75 của những người đã được điều trị phục hồi hoàn toàn. Gần đây, vào năm 1999 Berkson công bố báo cáo 3 bệnh nhân được điều trị bằng cách sử dụng chế độ dinh dưỡng bổ sung ba chất chống oxy hóa là ALA, selen và Silymarin ở những bệnh nhân bị bệnh gan, bao gồm cả nhiễm viêm gan C mãn tính. Sau nhiều tháng điều trị, cả ba bệnh nhân hồi phục hầu hết hoặc tất cả các chức năng gan của họ, tránh được ghép gan và tiếp tục sống khỏe mạnh, không còn các triệu chứng của các bệnh về gan. Từ 2006-2008, nghiên cứu ở người và động vật đã chỉ ra rằng ALA có thể quan trọng sau đây: phục hồi sau phẫu thuật gan, bảo vệ các tác dụng phụ của hóa trị liệu và ngộ độc hóa chất, và bảo vệ chống lại các ảnh hưởng xấu đến gan và thận từ các thuốc có chứa acetaminophen (ví dụ như Tylenol, Anacin-3 và Percocet). Từ thực một năm có đến hơn 56.000 trường hợp phải nhập viện vì ngộ độc acetaminophen, kết quả này thực sự có ý nghĩa lớn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét